Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Theo các số liệu thống kê cho biết khoảng 70% lượng ô nhiễm biển đại dương xuất phát từ đất liền. Cụ thể là từ chất xả thải tại các thành phố, thị trấn, thị xã, từ ngành công nghiệp, hóa chất, xây dựng,… Nổi bật và đáng nguy hại nhất đó là chất thải từ các nhà máy qua hệ thống cống rãnh và xả thẳng ra đại dương. Trong đó còn có chất bồi lắng, kim loại, hóa chất, cặn dầu và chất phóng xạ.
Mỗi năm có khoảng 100 con số nước ta thải ra biển 880km³ nước và 270 – 300 triệu tấn phù sa, kéo theo đó là nhiều chất làm ô nhiễm biển. Nhất là chất hữu cơ, kim loại nặng và chất độc hại từ khu dân cư tập trung. Ngoài ra còn có từ khu công nghiệp, đô thị hay khu nuôi trồng thủy sản ven biển, vùng sản xuất nông nghiệp.
Cũng theo báo cáo hiện trạng môi trường chỉ ra rằng chất lượng môi trường biển, vùng ven biển đang tiếp tục bị suy giảm. Nước biển một số khu vực đang có biểu hiện axit hóa vì độ PH tầng mặt biến đổi khoảng 6.3 – 8.2. Thủy triều đỏ xuất hiện tại vùng Nam Trung Bộ, nhất là Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh Hòa đã làm chất nhiều tôm cá nuôi trồng tại đây.
Chính chất lượng môi trường biển bị thay đổi nên khiến cho nơi cư trú tự nhiên của nhiều loại thủy hải sản bị phá hủy làm tổn thất lớn về sự đa dạng vùng bờ. Có đến khoảng 85 loài hải sản đang ở mức độ nguy cơ cấp khác nhau, trên 70 loài được đưa vào trong sách đỏ Việt Nam. Đồng thời hiệu suất khai thác hải sản giảm, ngư dân đánh bắt bằng xung điện, chất nổ,… diễn ra tương đối nhiều.
Những tác động nặng nề từ môi trường biển bị ô nhiễm gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của mọi người. Những sinh vật sống dưới biển khi tiếp xúc với nguồn nước bị ô nhiễm chất hóa học, chất phóng xạ sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của con người khi sử dụng nguồn thực phẩm này.
Ngoài ra những người ngư dân đánh bắt thủy hải sản cũng sẽ bị tác động lớn khi nguồn nước biển bị ô nhiễm. Lượng thủy hải sản không còn sẽ ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế của người dân, mất đi công việc của hàng triệu người.
4, Biện pháp khắc phục và bảo vệ môi trường biển
Nâng cao ý thức trong việc bảo vệ môi trường biển đối với mọi người
Để loại bỏ những hình ảnh môi trường bị ô nhiễm, môi trường biển bị tác động thì cần phải thực hiện nghiêm túc các biện pháp bảo vệ môi trường. Mỗi người cần ý thức giữ gìn môi trường biển, không xã rác thải ra biển và tuyên truyền, thực hiện hoạt động dọn rác ven biển.
Cần thường xuyên cập nhật những tài liệu ô nhiễm môi trường biển và các giải pháp đối với những doanh nghiệp kinh doanh vận tải biển hoặc khai thác trên biển. Xử lý nghiêm những doanh nghiệp không thực hiện nghiêm túc khi xả chất thải ra biển.
Nghiêm cấm các hoạt động khai thác biển sử dụng chất nổ, chất hóa học. Phân bố khu vực khai thác thủy hải sản hợp lý cho người dân cũng như tuyên truyền bảo vệ các loài động vật, sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng.
Trên đây là những thực trạng của môi trường biển tại Việt Nam hiện nay và các biện pháp bảo vệ môi trường biển. Mỗi người cần nâng cao ý thức trong việc bảo vệ môi trường biển cũng như có những giải pháp thiết thực giúp môi trường biển ngày càng trong sạch hơn, mang lại nguồn lợi ích to lớn hơn.
---------------------------------------------
Eco248.com - Siêu thị máy lọc nước Online lớn nhất Việt Nam - An tâm trọn đời !
Địa chỉ: Lô 11 ô DV 11 Tây Nam hồ Linh Đàm, Phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai, Hà Nội
Liên hệ mua hàng: 024.999.59.333
Hợp tác kinh doanh: 039.697.1236
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020 của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), 28 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển có tổng dân số khoảng 51 triệu người, mật độ dân số là 354 người/km2, cao hơn trung bình cả nước 1,9 lần, tốc độ gia tăng dân số khoảng 0,91%/năm. Các hoạt động của con người dẫn đến gia tăng chất thải, ảnh hưởng đến môi trường các khu vực ven biển, các vùng biển và hải đảo.
Chất thải ảnh hưởng đến môi trường biển
Đi kèm với sự phát triển đô thị ven biển là sự gia tăng dân số, chủ yếu là sự gia tăng cơ học, các đô thị biển cũng thu hút khách du lịch dẫn đến gia tăng các nguồn thải, gây áp lực lên hạ tầng đô thị, đặc biệt là hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống xử lý chất thải... Do đặc thù du lịch ở nước ta có chu kỳ mùa vụ (du lịch biển chủ yếu tập trung vào mùa Hè), lượng du khách tập trung đông vào một thời điểm khiến quá tải hệ thống thu gom rác thải, nước thải... gây ô nhiễm môi trường.
Hoạt động du lịch và dịch vụ biển không chỉ gây áp lực lên hạ tầng đô thị mà còn tác động lên không gian của các đô thị ven biển. Chỉ tính riêng lượng chất thải phát sinh từ các tàu du lịch trên vịnh Bắc Bộ đã ở mức trung bình 11,3 kg rác thải/tàu/ngày đêm. Hiện nay, qua khảo sát các tàu du lịch biển trên vịnh Bắc Bộ cho thấy, có tới 77% số tàu thải chất thải trực tiếp ra vịnh, chỉ có 20% số tàu mang chất thải vào bờ để xử lý.
Sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa ở các khu vực ven biển và những tác động của con người đối với môi trường được thể hiện rõ qua thống kê lượng nước thải sinh hoạt tại các đô thị ven biển. Ước tính, tại các khu vực ven biển, lượng nước thải phát sinh sẽ vào khoảng 122-163 triệu m3/ngày, đây là một sức ép lớn đến môi trường biển.
Nước thải sinh hoạt có chứa hàm lượng các chất hữu cơ, hợp chất chứa nitơ, chất rắn lơ lửng, các thành phần vô cơ, vi sinh vật, vi trùng gây bệnh khác... nếu không được quản lý, kiểm soát sẽ gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước biển ven bờ.
Tại huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh), theo ước tính, mỗi ngày lượng rác thải sinh hoạt phát sinh khoảng 8-10 tấn, chủ yếu là chất thải rắn sinh hoạt. Lượng rác thải thu gom trên huyện đảo này hiện mới đạt mức 6-8 tấn/ngày, trong đó phần lớn là rác thải sinh hoạt. Nguồn rác thải từ các hộ gia đình, chợ, khách sạn… được tập kết về bãi rác Voòng Xi, thuộc khu 4, thị trấn Cô Tô để chôn lấp. Tuy nhiên, số rác thải trên chủ yếu mới được thu gom tập trung ở các tuyến đường trung tâm thị trấn. Trong khi đó, một số khu vực như xã Thanh Lân, Đồng Tiến và các bãi biển có đông khách du lịch, việc thu gom rác thải lại rất hạn chế.
Tại huyện đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng), lượng chất thải chủ yếu tập trung từ hai nguồn là dân cư trên đảo và hoạt động du lịch. Trung bình mỗi ngày đảo Cát Bà phát sinh 58,6 m3 chất thải rắn các loại, thu gom được khoảng 40,74 m3 (chiếm 71%). Trong đó, rác thải phát sinh do hoạt động sinh hoạt, thương mại du lịch chiếm 80-85%; rác thải xây dựng, chế biến nuôi trồng thủy sản chiếm 10-13%, rác thải y tế khoảng 3-5%, các loại khác chiếm khoảng 0,7-1,2%.
Ngoài ra, một áp lực lớn khác đối với môi trường biển là tình trạng rác thải nhựa đại dương đang là vấn đề nóng trên toàn cầu, đặc biệt tại các quốc gia ven biển như Việt Nam. Chất thải nhựa đại dương trở thành mối nguy lớn cho môi trường biển bởi có số lượng lớn, đặc tính khó phân hủy trong môi trường biển và khả năng di chuyển xa. Tính trung bình, mỗi km2 mặt nước đại dương trên thế giới hiện nay chứa từ 13.000 đến 18.000 mẫu rác thải nhựa, 70% rác thải nhựa ở biển sẽ chìm xuống đáy biển và phá hoại các hoạt động sống ở đáy biển.
Sự gia tăng các nguồn thải từ lục địa, các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đang đè nặng lên môi trường biển và hải đảo, cùng với sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng gia tăng, gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, các sự cố môi trường biển để lại hậu quả nặng nề.
Theo thống kê của Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), chất thải hữu cơ là rác thải từ hoạt động công nghiệp tác động đáng kể đến môi trường biển, làm suy giảm chất lượng thủy sản và một số loài sinh vật biển khác, làm nước biển nhiễm độc, đặc biệt tại các vịnh và khu vực cửa sông nước ta. Tình trạng ô nhiễm chất hữu cơ, dầu mỡ đang diễn ra ở mức khá cao và vượt mức cho phép ở gần các khu du lịch, khu đông dân cư trải dài từ Bắc vào Nam, đặc biệt là vùng cửa sông tại các tỉnh, thành phố phía Bắc và dọc theo ven biển Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động khai thác khoáng sản biển, vận tải biển với quy mô khoảng 272 bến cảng biển đang hoạt động với tổng công suất trên 550 triệu tấn/năm. Ngoài nước thải có chứa dầu với khối lượng lớn, trung bình mỗi năm hoạt động này phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí, trên 15.000 tấn dầu mỡ trôi nổi, trong đó 23-30% là chất thải rắn nguy hại chưa được xử lý.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản làm tăng đáng kể lượng chất thải, chủ yếu là từ phân bón và thức ăn. Với tổng diện tích nuôi tôm là hơn 600.000 ha trên cả nước, hằng năm, gần 3 triệu tấn chất thải rắn thải ra môi trường.
Bên cạnh đó, tài nguyên thiên nhiên biển đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững. Cỏ biển trên toàn vùng biển nước ta từ Quảng Ninh đến Hà Tiên đã mất khoảng 40-60%; rừng ngập mặn mất đến 70% và khoảng 11% các rạn san hô bị phá hủy hoàn toàn, không có khả năng phục hồi. Thảm cỏ biển phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0-20 m, hiện chỉ còn khoảng trên 5.583 ha. Tại một số khu vực như đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng), thành phố Hạ Long (Quảng Ninh), vùng biển tỉnh Quảng Nam…, thảm cỏ biển hầu như không có cơ hội để phục hồi tự nhiên do có quá nhiều tác động từ hoạt động du lịch, nuôi trồng thủy sản… Trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã mất 12% rạn san hô, 48% số rạn san hô khác đang trong tình trạng suy thoái nghiêm trọng, tập trung chủ yếu ở các vùng có đông dân cư như vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), các tỉnh, thành phố ven biển miền Trung và một số đảo khác.
Các hệ sinh thái biển đang bị khai thác thiếu tính bền vững dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học. Đến nay, Sách đỏ Việt Nam và danh mục đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã ghi nhận khoảng 100 loài sinh vật biển nước ta có nguy cơ đe dọa tuyệt chủng. Một kết quả nghiên cứu của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc và một số tổ chức quốc tế khác cũng cho thấy, hơn 80% lượng cá trên các vùng biển ven bờ và ngoài khơi của Việt Nam đã bị khai thác. Trong đó, có đến 25% lượng cá bị khai thác quá mức hoặc khai thác cạn kiệt, sản lượng đánh bắt giảm đáng kể. Nhiều loài sinh vật biển khác đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng.
Theo thống kê chưa đầy đủ từ năm 1989 đến nay, cả nước có hơn 100 vụ tràn dầu do tai nạn hàng hải, tràn ra biển từ vài chục đến hàng trăm tấn dầu. Điển hình như sự cố tràn dầu tàu Formosa One xảy ra năm 2001 tại vịnh Gành Rái, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Do không tuân thủ chỉ dẫn của Cảng vụ Vũng Tàu, tàu Formosa One đã đâm vào tàu Petrolimex-01 làm tràn dầu khoảng 900 m3, tương đương 750 tấn dầu DO.
Năm 2019, tại khu vực sông Lòng Tàu, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh đã xảy ra sự cố tràn dầu của tàu Vietsun chở 150 tấn dầu bị chìm, 150 m3 dầu FO và 20 m3 dầu DO từ tàu này đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực rừng phòng hộ Cần Giờ và các khu vực nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, nhiều sự cố tràn dầu đã xảy ra như: sự cố tàu hàng 8.000 tấn chìm trên sông Lòng Tàu, huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh vào ngày 18/10/2019; sự cố chìm tàu Nordama Sophia của Thái Lan trên biển Hà Tĩnh ngày 28/11/2019 gây ra hiện tượng dầu vón cục trôi dạt trên bờ biển thuộc xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh…
Ngoài các sự cố tràn dầu trên biển, tình trạng xả nước thải chưa qua xử lý xuống môi trường nước biển ven bờ đã gây hậu quả nghiêm. Điển hình là sự cố môi trường biển do Công ty Trách nhiệm hữu hạn gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra khiến hải sản chết bất thường tại một số tỉnh miền Trung, đặc biệt tại 4 tỉnh miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế xảy ra vào đầu tháng 4/2016, để lại hậu quả rất nghiêm trọng trên nhiều phương diện, lĩnh vực, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế đất nước.
Tiến sỹ Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo Việt Nam thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cho biết, sự cố tràn dầu gây ảnh hướng xấu đến hệ sinh thái biển, đặc biệt là hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển, vùng triều bãi cát, đàm phá và các rạn san hô. Ô nhiễm dầu làm giảm sức chống đỡ, tính linh hoạt và khả năng khôi phục của các hệ sinh thái. Khi cháy loang trên mặt nước, dầu tạo thành váng và bị biến đổi tính chất. Hàm lượng dầu trong nước tăng, các màng dầu làm giảm khả năng trao đổi ô-xy giữa không khí và nước, dầu tràn chứa độc tố làm tổn thương hệ sinh thái.
Bài cuối: Cơ hội và giải pháp bảo vệ môi trường biển