Chiến Tranh Iraq Hiện Nay

Chiến Tranh Iraq Hiện Nay

Bức tranh thị trường lao động toàn cầu hiện nay là một chủ đề quan tâm hàng đầu đối với các nhà quản lý. Thị trường lao động toàn cầu đã chứng kiến nhiều thay đổi đáng chú ý trong những năm gần đây, đặc biệt là do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, sự phát triển của công nghệ số và nhu cầu của người lao động. Trong bài viết này, OCD sẽ phân tích một số xu hướng chính của thị trường lao động toàn cầu hiện nay, cũng như những thách thức và cơ hội mà chúng mang lại cho các doanh nghiệp, chính phủ và người lao động.

Bức tranh thị trường lao động toàn cầu hiện nay là một chủ đề quan tâm hàng đầu đối với các nhà quản lý. Thị trường lao động toàn cầu đã chứng kiến nhiều thay đổi đáng chú ý trong những năm gần đây, đặc biệt là do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, sự phát triển của công nghệ số và nhu cầu của người lao động. Trong bài viết này, OCD sẽ phân tích một số xu hướng chính của thị trường lao động toàn cầu hiện nay, cũng như những thách thức và cơ hội mà chúng mang lại cho các doanh nghiệp, chính phủ và người lao động.

Người lao động có trình độ giáo dục thấp bị ảnh hưởng nặng nề

Người lao động có trình độ giáo dục cơ bản bị ảnh hưởng nặng nề nhất vào năm 2020 và quá trình phục hồi diễn ra chậm hơn so với trước đây. Ở nhiều nước, tỷ lệ thất nghiệp từ năm 2019 đến năm 2021 của người lao động có trình độ giáo dục cơ bản (dừng lại ở mức trung học phổ thông) cao hơn gấp đôi so với người lao động có trình độ giáo dục bậc cao (từ mức đại học trở lên).

Biểu đồ Thay đổi tỷ lệ thất nghiệp theo nền kinh tế và trình độ giáo dục, 2019-2021

Nguồn: International Labour Organization, ILOSTAT

Từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 1 năm 2022, hơn 3.900 biện pháp bảo trợ xã hội đã được triển khai trên 223 nền kinh tế để hỗ trợ lực lượng lao động bị ảnh hưởng bởi COVID-19, ước tính đã tiếp cận gần 1,2 tỷ người trên toàn cầu. Trợ cấp lương, chuyển tiền mặt, biện pháp đào tạo và mở rộng phạm vi trợ cấp thất nghiệp đều là những cách quan trọng để bảo vệ người lao động trong thời kỳ đại dịch. Tuy nhiên hầu hết các biện pháp này đang được ngừng dần để tập trung cho các khoản đầu tư trung và dài hạn. Để giảm thiểu tác động lâu dài của các cú sốc kinh tế có khả năng lặp lại.

Tuy nhiên, vẫn còn nhu cầu cấp thiết phải cung cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ cho những người không được bảo hiểm bởi hợp đồng lao động full-time. Do gần 2 tỷ người lao động trên toàn cầu đang làm việc trong lĩnh vực phi chính thức, chiếm gần 70% lao động ở các nước đang phát triển và có thu nhập thấp, cũng như 18% ở các nước có thu nhập cao. Các biện pháp có thể giúp giảm thiểu tác động của các cú sốc kinh tế đối với lao động phi chính thức, cải thiện điều kiện sống và làm việc của họ, và thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.

Các công việc sẽ phát triển nhanh nhất

Nghiên cứu được thực hiện bởi LinkedIn cho the Future of Jobs Report 2023 mô tả 100 công việc ghi nhận sự phát triển nhanh nhất, nhất quán và trên toàn cầu suốt 4 năm qua – được gọi là “Jobs on the Rise”. Trong khi dữ liệu của ILO và OECD cho thấy những ngành nào đang tuyển dụng nhiều người hơn, dữ liệu Jobs on the Rise xác định các loại công việc cụ thể đã trải qua sự tăng trưởng đáng kể.

LinkedIn jobs on the rise, 2018-2022

Fastest growing job postings on LinkedIn 2018-2022

Trong số các nhóm ở dưới danh sách, các vai trò liên quan đến Bền vững và Môi trường đáng chú ý vì tất cả đều thuộc top 40 (bao gồm ba trong số 10 công việc hàng đầu). Điều này có thể cho thấy chuyển đổi xanh vừa là một xu hướng thị trường lao động quan trọng và đang phát triển, nơi các vai trò có các tiêu đề như “Sustainability Analyst”.

Nguồn bài viết: Future of Jobs Report 2023

Tóm lại những thay đổi đáng chú ý trong thị trường lao động toàn cầu

Những thay đổi này đang đặt ra những thách thức và cơ hội mới cho các doanh nghiệp và các nhà hoạch định chính sách. Cần đầu tư vào đào tạo và phát triển nhân viên để giúp họ thích ứng với những thay đổi của thị trường lao động. Đồng thời cần có những chính sách hỗ trợ người lao động để giúp họ có được việc làm và phát triển nghề nghiệp.

Thị trường lao động toàn cầu là một chủ đề rất đa dạng và phức tạp, có nhiều khía cạnh cần được nghiên cứu và hiểu rõ. OCD hy vọng rằng bài viết này đã giúp bạn có cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về những xu hướng, thách thức và cơ hội của thị trường lao động toàn cầu hiện nay, cũng như những ảnh hưởng của chúng đến các doanh nghiệp, chính phủ và người lao động.

Nếu bạn quan tâm đến chủ đề này và muốn tìm hiểu thêm, bạn có thể tham khảo một số nguồn tin cậy và chất lượng dưới đây:

Công ty Tư vấn Quản lý OCD (OCD Management Consulting Co) là một trong những đơn vị tư vấn quản lý hàng đầu Việt Nam với tính chuyên nghiệp, thực tiễn và chất lượng cao.

Thông tin chính thức về OCD được cập nhật tại website: https://ocd.vn

Fanpage chính thức của OCD vui lòng truy cập: https://facebook.com/OCDConsulting

Liên hệ nhanh Hotline/Zalo: 0886595688 hoặc gửi email đến: [email protected]

Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991 (cũng gọi là Chiến tranh vịnh Ba Tư hay Chiến dịch Bão táp Sa mạc) là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 38 quốc gia[21] do Hoa Kỳ lãnh đạo và được Liên Hợp Quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait.

Sự kiện dẫn tới chiến tranh là việc Iraq xâm chiếm Kuwait ngày 2 tháng 8 năm 1990, sau khi Iraq cho rằng (nhưng không chứng minh được) Kuwait đã "khoan nghiêng" giếng dầu của họ vào biên giới Iraq. Hậu quả của cuộc xâm chiếm là Iraq ngay lập tức bị Liên Hợp Quốc áp đặt trừng phạt kinh tế. Những hành động quân sự bắt đầu từ tháng 1 năm 1991, dẫn tới 1 thắng lợi hoàn toàn của các lực lượng đồng minh, buộc quân đội Iraq phải rút khỏi Kuwait với tổn thất nhân mạng ở mức tối thiểu cho lực lượng đồng minh. Những trận đánh chính là những trận đánh trên không và trên bộ bên trong Iraq, Kuwait và những vùng giáp biên giới Ả Rập Xê Út. Cuộc chiến không mở rộng ra ngoài vùng biên giới Iraq/Kuwait/Ả Rập Xê Út, dù Iraq đã bắn tên lửa vào các thành phố của Israel. Cuộc chiến có thể coi là chiến tranh vệ quốc hoặc phản kích tự vệ của Kuwait khi nước này đã bị xâm lược trước.

"Chiến tranh Vùng Vịnh" và "Chiến tranh vịnh Ba Tư" là những thuật ngữ thường được dùng nhất để chỉ cuộc xung đột này ở các nước phương Tây. Những cái tên đó đã được đa số các nhà sử học và nhà báo sử dụng tại Hoa Kỳ. Từ "Chiến dịch Iraq tự do" ngày 22 tháng 3 năm 2003 và tiếp theo là việc Hoa Kỳ chiếm đóng Iraq, cuộc xung đột năm 1991 hiện nay thường được gọi là "Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất". Tại Hoa Kỳ cuộc xung đột thường được gọi là Chiến dịch "Lá chắn sa mạc" (Desert Shield) và "Bão táp sa mạc" (Desert Storm) và ở Anh là Chiến dịch Granby. Tại Kuwait và đa số các nước Ả Rập cuộc xung đột thường được gọi là Harb Tahrir al-Kuwait hay "Chiến tranh giải phóng Kuwait". Tại Iraq, cuộc chiến thường được gọi là Um M'aārak - "Cuộc chiến của mọi cuộc chiến".

Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, theo Hiệp định Anh-Ottoman năm 1913, Kuwait bị coi là một "caza tự trị" bên trong Iraq của Đế chế Ottoman. Sau cuộc chiến, Kuwait thuộc quyền cai trị của Anh và nước này coi Kuwait và Iraq là hai quốc gia riêng biệt, được gọi là Các Tiểu Vương quốc Ả Rập. Tuy nhiên, những quan chức Iraq không chấp nhận tính hợp pháp của nền độc lập của Kuwait hay chính quyền Emir tại Kuwait. Iraq không bao giờ chấp nhận chủ quyền của Kuwait và vào năm 1961, Anh đã phải triển khai quân đội để bảo vệ Kuwait khỏi ý định sáp nhập của Iraq, việc bảo vệ kéo dài đến năm 1971.

Trong Chiến tranh Iran-Iraq ở thập niên 1980, Kuwait là đồng minh của Iraq, phần lớn là để được Iraq bảo vệ khỏi những người Shi'ite ở Iran. Sau cuộc chiến, Iraq nợ các nước Ả Rập nhiều khoản tiền lớn, trong đó có 14 tỷ dollar nợ Kuwait. Iraq hy vọng sẽ trả được những khoản nợ đó khi làm tăng giá dầu mỏ thông qua việc cắt giảm sản lượng khai thác của OPEC, nhưng thay vào đó, Kuwait lại tăng lượng khai thác của mình khiến giá dầu giảm sút, trong một nỗ lực nhằm kích thích có được một giải pháp giải quyết tốt hơn cho việc tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước. Ngoài ra, Iraq bắt đầu buộc tội Kuwait đã khoan nghiêng vào các giếng dầu của họ ở vùng biên giới và cho rằng vì Iraq là nước đệm chống lại Iran bảo vệ cho toàn bộ các nước Ả Rập nên Kuwait và Ả Rập Xê Út phải đàm phán hay hủy bỏ những khoản nợ cho chiến tranh của Iraq. Hai lý do ban đầu Tổng thống Iraq Saddam Hussein đưa ra để biện hộ cho cuộc chiến là để xác nhận việc Kuwait từng là một phần của lãnh thổ Iraq và đã bị chủ nghĩa thực dân tách ra một cách không công bằng, và Iraq sáp nhập Kuwait để bù "phí tổn kinh tế" khi họ phải bảo vệ Kuwait trước Iran cũng như việc Kuwait đã khoan nghiêng vào các giếng dầu của họ.

Cuộc chiến với Iran đã khiến hầu hết tất cả các cơ sở cảng biển của Iraq ở Vịnh Ba Tư bị hủy hoại, khiến cho con đường giao thương chính của nước này với bên ngoài bị cản trở. Nhiều người Iraq, cho rằng cuộc chiến với Iran sẽ lại tái diễn trong tương lai, cảm thấy rằng an ninh của Iraq chỉ được đảm bảo khi họ kiểm soát thêm được vùng vịnh Ba Tư, gồm cả những cảng biển quan trọng. Chính vì thế Kuwait chính là một mục tiêu.

Về ý thức hệ, cuộc xâm chiếm Kuwait được biện hộ bởi những lời kêu gọi của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập. Kuwait từng được coi là một phần lãnh thổ tự nhiên của Iraq và đã bị chủ nghĩa thực dân Anh tách ra. Việc sáp nhập Kuwait được miêu tả như là một bước trên con đường tiến tới một Liên hiệp Ả Rập rộng lớn hơn. Các lý do khác cũng được đưa ra. Hussein coi đó là một cách để khôi phục Đế chế Babylon theo cách khoa trương của những người Ả Rập theo chủ nghĩa quốc gia. Cuộc xâm chiếm cũng có quan hệ chặt chẽ với các sự kiện ở vùng Trung Đông. Phong trào Intifada lần thứ nhất của người Palestine đang ở cao trào, và hầu hết các nước Ả Rập, gồm cả Kuwait, Ả Rập Xê Út và Ai Cập, đang phải phụ thuộc vào các nước đồng minh phương Tây. Vì thế Saddam xuất hiện với vai trò là một chính khách Ả Rập đứng lên chống lại Israel và Hoa Kỳ.

Đối với Hoa Kỳ, Iran-Iraq có các mối quan hệ ổn định và Iraq từng là nước đứng đầu một liên minh với Liên bang Xô viết. Hoa Kỳ lo ngại tình trạng thù địch của Iraq với Israel và sự không tán thành những hành động hướng tới một nền hòa bình với các nước Ả Rập khác. Họ cũng buộc tội Iraq hỗ trợ cho nhiều nhóm chiến binh Ả Rập và Palestine như Abu Nidal, dẫn tới việc họ đưa nước này vào danh sách các quốc gia ủng hộ khủng bố ngày 29 tháng 12 năm 1979. Hoa Kỳ vẫn chính thức giữ thái độ trung lập khi Chiến tranh Iran-Iraq xảy ra, và trước đó họ từng bị bẽ mặt bởi cuộc khủng hoảng con tin Iran dài 444 ngày và hy vọng rằng Iran sẽ không thể thắng trong cuộc chiến. Tuy nhiên, vào tháng 3 năm 1982, Iran bắt đầu một cuộc phản công thắng lợi ("Chiến dịch thắng lợi không thể phủ nhận"). Trong một nỗ lực nhằm mở ra khả năng về những quan hệ có thể có với Iraq, Hoa Kỳ đã đưa nước này ra khỏi danh sách ủng hộ khủng bố. Bề ngoài việc này nhờ ở sự cải thiện các chính sách của Iraq, mặc dù cựu Trợ lý bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Noel Koch sau này đã cho rằng "Không ai có nghi ngờ về việc [người Iraq] tiếp tục dính dáng tới chủ nghĩa khủng bố... Lý do thực sự là để giúp họ giành thắng lợi trong cuộc chiến với Iran."[1]

Với thắng lợi mới đạt được của Iran trong cuộc chiến và việc họ từ chối một đề xuất hòa bình vào tháng 7, việc mua bán vũ khí từ các nước khác (nhiều nhất là Liên Xô, Pháp, Ai Cập, và bắt đầu từ năm đó là Trung Quốc) đã đạt tới đỉnh điểm năm 1982, nhưng một trở ngại vẫn còn chưa được giải quyết để có được bất kỳ một mối quan hệ tiềm năng nào giữa Mỹ-Iraq - Abu Nidal tiếp tục hoạt động với sự hỗ trợ chính thức của Baghdad. Khi nhóm này bị trục xuất sang Syria vào tháng 11 năm 1983, chính quyền Reagan đã cử Donald Rumsfeld làm phái viên đặc biệt sang Iraq nhằm thiết lập các mối quan hệ.

Vì sợ rằng nước Iran cách mạng sẽ đánh bại Iraq và xuất khẩu Cách mạng Hồi giáo của mình sang các nước Trung Đông khác, Hoa Kỳ bắt đầu viện trợ cho Iraq. Từ 1983 đến 1990, Chính phủ Hoa Kỳ đã phê chuẩn việc bán khoảng 200 triệu đô la Mỹ vũ khí cho Iraq, theo Viện hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI)[2]. Giá trị trên đạt chưa tới 1% tổng giá trị vũ khí được bán cho Iraq ở giai đoạn này, dù Hoa Kỳ cũng bán máy bay trực thăng, chỉ được thiết kế cho mục đích dân sự, và chúng nhanh chóng được quân đội Iraq đem ra sử dụng trong chiến tranh với Iran[3].

Một cuộc điều tra của Ủy ban tài chính Thượng nghị viện năm 1994 xác định rằng Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã phê chuẩn, cho mục đích nghiên cứu, việc bán các tác nhân sinh học đa tác dụng cho Iraq hồi giữa thập niên 1980, gồm cả khuẩn bệnh than (anthrax), sau này bị Lầu Năm Góc coi là một nhân tố quan trọng trong chương trình vũ khí sinh học của Iraq, cũng như Clostridium botulinum, Histoplasma capsulatum, Brucella melitensis và Clostridium perfringens. Báo cáo của Ủy ban cho rằng mỗi tác nhân trên đều đã bị "nhiều nước coi là có mục đích sử dụng trong chiến tranh"[4]. Các tài liệu được giải mật của chính phủ Mỹ cho thấy chính phủ đã xác nhận rằng Iraq đã sử dụng các vũ khí hoá học "hầu như hàng ngày" trong cuộc xung đột Iran-Iraq ngay từ năm 1983[5]. Chủ tịch Ủy ban thượng nghị viện, Don Riegle, đã nói: "Nhánh hành pháp của chính phủ chúng ta đã phê chuẩn 771 giấy phép xuất khẩu khác nhau cho việc bán các kỹ thuật đa ứng dụng cho Iraq. Tôi cho rằng đó là một kỷ lục kinh khủng"[6] Lưu trữ 2008-05-16 tại Wayback Machine. Có rất ít bằng chứng cho thấy Iraq từng sử dụng các loại vũ khí sinh học trong chiến tranh và không một tác nhân sinh học nào trong bản báo cáo trên có liên quan tới các vũ khí hoá học.

Chủ yếu chính phủ Hoa Kỳ cung cấp viện trợ kinh tế cho Iraq. Cuộc chiến của Iraq với Iran và sự suy sụp trong sản xuất và buôn bán dầu mỏ của họ - hậu quả của cuộc chiến đó, đã khiến Iraq rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Viện trợ kinh tế của chính phủ Mỹ cho phép Hussein tiếp tục sử dụng các nguồn tài nguyên khác của đất nước cho chiến tranh. Từ giữa năm 1983 và 1990, Iraq đã nhận được 5 tỷ dollar tín dụng từ chương trình của Commodity Credit Corporation một tổ chức thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, bắt đầu ở mức 400 triệu đô la một năm năm 1983 và tăng tới hơn 1 tỷ một năm năm 1988 và 1989, cuối cùng kết thúc với khoản tiền 500 triệu năm 1990[7]. Bên cạnh các khoản tín dụng nông nghiệp, Hoa Kỳ cũng cung cấp cho Hussein các khoản vay khác. Năm 1985 Ngân hàng xuất nhập khẩu Hoa Kỳ cấp hơn 684 triệu dollar tín dụng cho Iraq để xây dựng đường ống dẫn dầu qua Jordan và việc xây dựng được thực hiện bởi Bechtel Corporation có trụ sở tại California[8] [9].

Tuy nhiên, sau chiến tranh đã có nhiều hành động bên trong Hạ nghị viện Hoa Kỳ nhằm cô lập Iraq về ngoại giao và kinh tế do những lo ngại về những sự vi phạm nhân quyền, sự tăng cường quân sự và sự thù địch của Iraq đối với Israel. Đặc biệt, năm 1988 Thượng nghị viện thống nhất thông qua "Điều luật ngăn chặn diệt chủng năm 1988", áp đặt trừng phạt lên Iraq[10].

Những hành động đó bị nhiều thành viên Hạ viện phản đối dù một số quan chức Hoa Kỳ như chủ tịch uỷ ban thành lập chính sách của Bộ ngoại giao và trợ lý bộ trưởng về các vấn đề Đông Á Paul Wolfowitz không nhất trí với việc ngừng cung cấp viện trợ cho chính quyền Iraq.

Quan hệ giữa Iraq và Hoa Kỳ tiếp tục không bị cản trở gì cho tới khi Iraq tấn công xâm chiến Kuwait. Ngày 2 tháng 10 năm 1989, Tổng thống George H. W. Bush ký một chỉ thị mật số 26 về an ninh quốc gia, bắt đầu bằng, "Việc tiếp cận tới nguồn dầu mỏ ở Vịnh Péc xích và an ninh của các quốc gia đồng minh chủ chốt trong vùng là vấn đề sống còn đối với an ninh Hoa Kỳ."[11] Đối với Iraq, chỉ thị này cho rằng "Những quan hệ bình thường giữa Hoa Kỳ và Iraq sẽ phục vụ cho những lợi ích lâu dài và thúc đẩy sự ổn định ở cả Vịnh Péc xích và Trung Đông."

Cuối tháng 7 năm 1990, khi những cuộc thương lượng giữa Iraq và Kuwait sa lầy, Quân đội Iraq tập trung tới vùng biên giới với Kuwait và triệu tập Đại sứ Hoa Kỳ April Glaspie tới một cuộc gặp bất ngờ với Tổng thống Iraq Saddam Hussein. Hai văn bản về cuộc gặp đó đã được thảo ra, cả hai rất trái ngược nhau. Theo những văn bản đó, Saddam phác ra những bất bình của mình đối với Kuwait, trong khi hứa hẹn rằng ông sẽ không xâm chiếm Kuwait trước khi tiếp diễn những cuộc đàm phán thẳng thắn khác. Ở văn bản do báo The New York Times đưa ra ngày 23 tháng 9 năm 1990, Glaspie bày tỏ lo ngại về việc tăng cường quân sự, nhưng nói:

Một số người đã cho rằng những lời bình luận trên theo ngôn ngữ ngoại giao thực tế là sự "bật đèn xanh" của Mỹ cho cuộc xâm chiếm. Dù bộ ngoại giao không xác nhận (hay phủ nhận) tính xác thực của những văn bản đó, những nguồn tin tại Hoa Kỳ cho rằng Glaspie đã giải quyết mọi vấn đề "theo chỉ đạo" (phù hợp với tính trung lập chính thức của Hoa Kỳ về vấn đề Iraq-Kuwait) và không bật đèn xanh cho Tổng thống Iraq Saddam Hussein về việc bất chấp thái độ của Liên đoàn Ả Rập, khi ấy đã tổ chức các cuộc thương lượng. Nhiều người tin rằng những trù tính của Saddam đã bị ảnh hưởng bởi việc nhận thức được rằng Hoa Kỳ không quan tâm tới vấn đề, vì thế bản ghi chép của Glaspie chỉ đơn giản là một thứ làm ví dụ và rằng có thể ông ta (Saddam) cũng cảm thấy thế một phần vì Hoa Kỳ ủng hộ sự thống nhất nước Đức, một hành động khác mà ông cho rằng chẳng mang ý nghĩa gì hơn sự hủy bỏ một biên giới nhân tạo ở bên trong. Những người khác, như Kenneth Pollack, tin rằng Sadddam không hề có ảo tưởng đó, hay rằng ông đơn giản đã đánh giá thấp khả năng sử dụng quân sự của Hoa Kỳ.

Tháng 11 năm 1989, giám đốc CIA William Webster gặp gỡ lãnh đạo cơ quan an ninh Kuwait, Thiếu tướng Fahd Ahmed Al-Fahd. Sau khi Iraq xâm chiếm Kuwait, Iraq tuyên bố đã tìm thấy một bản ghi nhớ liên quan tới cuộc trao đổi giữa họ. Tờ The Washington Post đã thông báo rằng Bộ trưởng Ngoại giao Kuwait đã ngất xỉu khi trông thấy tài liệu này trong một cuộc họp thượng đỉnh Ả Rập vào tháng 8. Sau này, Iraq cho rằng bản ghi nhớ này là bằng chứng về một âm mưu của CIA và Kuwait nhằm làm mất ổn định kinh tế và chính trị Iraq. CIA và Kuwait đã miêu tả cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp thông thường và bản ghi nhớ chỉ là một sự giả mạo. Một phần của văn bản đó như sau:

Rạng sáng ngày 2 tháng 8 năm 1990, quân đội Iraq vượt biên giới Kuwait với bộ binh và xe bọc thép, chiếm các vị trí chiến lược trên toàn bộ Kuwait, gồm cả cung điện Emir. Quân đội Kuwait nhanh chóng bị áp đảo, dù họ cũng kìm chân địch đủ thời gian cho Không quân Kuwait bay sang trốn ở Ả Rập Xê Út. Trận đánh dữ dội nhất diễn ra tại Cung Emir, nơi các lực lượng bảo vệ hoàng gia chiến đấu bọc hậu cho gia đình hoàng gia tẩu thoát. Anh (Em) của Emir, là người chỉ huy đội quân đó, nằm trong số người thiệt mạng. Quân đội Iraq cướp bóc các kho thực phẩm và thuốc men dự trữ, giam giữ hàng nghìn dân thường và chiếm quyền kiểm soát đài phát thanh. Đã có nhiều báo cáo về các vụ sát hại, những hành động tàn bạo và những vụ hãm hiếp của quân đội Iraq với thường dân Kuwait. Tuy nhiên, Iraq đã giam giữ hàng nghìn người phương Tây làm con tin và sau đó tìm cách đem họ ra làm vật trao đổi. Sau một khi lập nên chính phủ bù nhìn do Alaa Hussein Ali lãnh đạo một thời gian ngắn, Iraq sáp nhập Kuwait. Sau đó Hussein lập ra một thống đốc tỉnh mới này của Iraq, gọi đó là "sự giải phóng" khỏi chế độ Emir của Kuwait, đây chỉ là một biện pháp tuyên truyền trong chiến tranh.

Chỉ vài giờ sau cuộc tấn công đầu tiên, các phái đoàn Kuwait và Hoa Kỳ đã yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhóm họp, thông qua Nghị quyết 660, lên án cuộc xâm lược và yêu cầu Iraq rút quân. Ngày 3 tháng 8, Liên đoàn Ả Rập thông qua nghị quyết của riêng mình lên án cuộc xâm lược và đòi Iraq rút quân. Nghị quyết của Liên đoàn Ả Rập cũng kêu gọi tìm ra một giải pháp cho cuộc xung đột từ bên trong Liên đoàn Ả Rập, và cảnh báo chống lại sự can thiệp từ bên ngoài. Ngày 6 tháng 8, Hội đồng Bảo an thông qua Nghị quyết 661, áp đặt trừng phạt kinh tế lên Iraq.

Quyết định của phương Tây nhằm đẩy lùi cuộc xâm lược của Iraq thực chất có mục đích chính là để ngăn Iraq xâm lược Ả Rập Xê Út, một nước có tầm quan trọng hơn rất nhiều so với Kuwait, như việc Iraq đã làm với Kuwait. Thắng lợi nhanh chóng của quân đội Iraq trước Kuwait khiến quân đội Iraq đã tiến đến rất gần các giếng dầu ở Hama, là nguồn tài nguyên giá trị nhất của Ả Rập Xê Út. Việc Iraq kiểm soát được các giếng dầu đó cũng như những nguồn tài nguyên dầu lửa của Iraq và Kuwait sẽ làm cho họ nắm được một phần quan trọng tài nguyên dầu lửa thế giới, chỉ đứng sau chính Ả Rập Xê Út. Đặc biệt, Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản coi một sự độc quyền tiềm tàng như vậy là rất nguy hiểm. Về mặt địa lý, Ả Rập Xê Út là một nước lớn với các khu vực dân cư nằm phân tán và sẽ rất khó khăn để động viên binh lính nhằm chống lại các đội quân Iraq đang được triển khai ở phía nam Kuwait. Rất có khả năng là Iraq sẽ chiếm quyền kiểm soát các giếng dầu ở phía đông nhưng lại khó đoán được khi nào họ sẽ tấn công vào Riyadh, thủ đô của Ả Rập Xê Út. Các sư đoàn thiết giáp Iraq cũng sẽ phải đối mặt với những khó khăn tương tự như khó khăn mà các lực lượng Ả Rập Xê Út được triển khai tới bảo vệ các giếng dầu gặp phải, vì họ cùng phải vượt qua một sa mạc rộng lớn với điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Việc này, nếu đã xảy ra, sẽ phải xảy ra dưới bom của không lực Ả Rập Xê Út, phần hiện đại hóa nhất của quân đội Ả Rập Xê Út.

Iraq có một số bất mãn với Ả Rập Xê Út. Mối lo về những khoản nợ nảy sinh từ thời Chiến tranh Iran - Iraq là rất lớn vì Iraq nợ Ả Rập Xê Út tới khoảng 26 tỷ đô la Mỹ. Biên giới sa mạc dài giữa hai nước cũng chưa được phân chia rõ ràng. Ngay sau khi có được chiến thắng ở Kuwait, Xát-đam bắt đầu dùng những lời phát biểu để công kích vương triều Ả Rập Xê Út. Ông cho rằng vương triều do Mỹ hậu thuẫn đó là kẻ trông coi bất hợp pháp của những thành phố linh thiêng như Mecca và Medina. Xát-đam gộp cả ngôn ngữ của những nhóm Hồi giáo đang chiến đấu ở Afghanistan thời đó với kiểu phát biểu khoa trương mà Iran từ lâu đã sử dụng để tấn công Ả Rập Xê Út. Việc đưa thêm dòng chữ Allahu Akbar (Thánh Ala vĩ đại) vào lá cờ Iraq và những hình ảnh Xát-đam đang cầu nguyện ở Kuwait được coi là một phần của kế hoạch lôi kéo sự ủng hộ từ Nhóm huynh đệ Hồi giáo và chia rẽ nhóm Hồi giáo Mu-gia-hít-đin với Ả Rập Xê Út. Khi quân đội phương tây bắt đầu kéo đến nước này, những cuộc tấn công tuyên truyền đó còn leo thang lên mức cao hơn nữa.

Tổng thống George H. W. Bush nhanh chóng thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ tung ra một chiến dịch "bảo vệ toàn diện" nhằm ngăn chặn Iraq tấn công Ả Rập Xê Út – "Chiến dịch Lá chắn sa mạc" – và quân đội Hoa Kỳ được chuyển tới Ả Rập Xê Út ngày 7 tháng 8. Ngày 8 tháng 8, Iraq tuyên bố một số phần lãnh thổ Kuwait sẽ bị sáp nhập vào quận Basra và phần còn lại trở thành tỉnh thứ 19 của Iraq.

Hải quân Hoa Kỳ huy động hai nhóm tàu chiến, USS Dwight D. Eisenhower và USS Independence tới khu vực, và họ đã ở tình trạng sẵn sàng vào ngày 8 tháng 8. Cũng trong ngày hôm đó, 48 chiếc F-15 thuộc Không lực Hoa Kỳ từ 1st Fighter Wing tại Căn cứ không quân Langley, Virginia, đã hạ cánh xuống Ả Rập Xê Út và ngay lập tức bắt đầu tiến hành tuần tra trên những vùng không phận biên giới Ả Rập Xê Út và Iraq nhằm ngăn chặn đà tiến của quân đội Iraq. Hoa Kỳ cũng gửi những thiết giáp hạm USS Missouri và USS Wisconsin vào trong vùng, sau này chúng sẽ là những tàu chiến cuối cùng tham gia tích cực vào cuộc chiến. Việc huy động quân sự tiếp tục diễn ra, cuối cùng đã lên tới 500.000 quân. Những nhà phân tích quân sự nhất trí rằng tới tháng 10, quân đội Mỹ trong vùng chưa đủ sức để ngăn chặn cuộc tấn công (nếu có) của Iraq vào Ả Rập Xê Út.

Cùng lúc ấy hàng loạt những nghị quyết của Hội đồng bảo an và Liên đoàn Ả Rập được đưa ra về cuộc xung đột. Một trong những nghị quyết quan trọng nhất là Nghị quyết 678 của Liên Hợp Quốc, thông qua ngày 29 tháng 11, trao cho Iraq hạn chót để rút quân là ngày 15 tháng 1 năm 1991, và cho phép sử dụng "mọi biện pháp cần thiết để duy trì và thực hiện Nghị quyết 660", một công thức ngoại giao có nghĩa là cho phép sử dụng vũ lực.

Hoa Kỳ, đặc biệt là Ngoại trưởng James Baker, tập hợp các lực lượng đồng minh chống lại Iraq, gồm lực lượng từ 34 nước: Afghanistan, Argentina, Úc, Bahrain, Bangladesh, Canada, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Ai Cập, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Honduras, Ý, Kuwait, Maroc, Hà Lan, New Zealand, Niger, Na Uy, Oman, Pakistan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Qatar, Ả Rập Xê Út, Sénégal, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Anh và chính Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ chiếm 74% trong số 660.000 lính trước chiến tranh. Nhiều lực lượng đồng minh bất đắc dĩ phải tham gia; một số cảm thấy rằng cuộc chiến là công việc nội bộ của Ả Rập, hay lo ngại sự tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở Kuwait. Cuối cùng, nhiều nước đã bị thuyết phục khi chứng khiến sự hiếu chiến của Iraq đối với các nước Ả Rập khác, và khi được hứa hẹn viện trợ kinh tế cũng như giảm nợ.

Hoa Kỳ đưa ra nhiều lý do biện minh cho việc dính líu vào cuộc xung đột. Lý lẽ đầu tiên là tầm quan trọng của mối quan hệ liên minh lâu dài với Ả Rập Xê Út. Tuy nhiên, một số người Mỹ không bằng lòng với cách giải thích đó và khẩu hiệu "Không đổi máu lấy dầu" đã trở thành tiếng kêu thường thấy nhất trong các cuộc biểu tình phản đối từ bên trong nước Mỹ, dù chúng không bao giờ đạt tới tầm cao như phong trào phản chiến trong chiến tranh Việt Nam. Lý do tiếp sau cho cuộc chiến là lịch sử vi phạm nhân quyền của Iraq dưới chế độ Tổng thống Saddam Hussein, nguy cơ Iraq có thể phát triển vũ khí hạt nhân hay vũ khí hủy diệt hàng loạt và rằng "sự gây hấn lộ liễu sẽ không có chỗ đứng" (naked aggression will not stand).

Dù những vụ vi phạm nhân quyền của chính quyền Iraq trước và sau khi xâm chiếm Kuwait được ghi chép rất nhiều, chính phủ Kuwait đã bị ảnh hưởng từ quan điểm của Hoa Kỳ trong một số vấn đề. Ngay sau khi Iraq chiếm Kuwait, tổ chức các công dân cho một nước Kuwait tự do đã được thành lập ở Mỹ. Nó thuê công ty quan hệ công chúng Hill and Knowlton với giá 11 triệu dollar do chính phủ Kuwait cung cấp. Công ty này bắt đầu tạo ra một chiến dịch miêu tả các binh sĩ Iraq là đã lôi những đứa trẻ ra khỏi lồng ấp trong các bệnh viện Kuwait và để chúng chết dưới sàn. Tuy nhiên, một năm sau luận điệu này đã bị khám phá ra là giả dối. Người đã làm chứng cho việc đó hoá ra là một thành viên của Gia đình hoàng gia Kuwait sống tại Paris khi xảy ra chiến tranh, và vì thế không thể có mặt ở Iraq vào thời điểm xảy ra cái gọi là tội ác. (Xem Nurse Nayirah.)

Nhiều sáng kiến hòa bình đã được đưa ra nhưng không được chấp nhận. Hoa Kỳ nhấn mạnh rằng những giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được để có hòa bình toàn diện với Iraq, là việc rút quân không điều kiện ra khỏi Kuwait. Iraq nhấn mạnh rằng việc rút quân khỏi Kuwait phải được "gắn liền với" sự rút quân đồng thời của quân đội Syria ra khỏi Liban và quân đội Israel ra khỏi Bờ Tây, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, và Nam Liban. Maroc và Jordan đã bị thuyết phục bởi đề xuất này, nhưng Syria, Israel và liên minh chống Iraq phản đối rằng không hề có một mối liên hệ nào giữa những việc trên với vấn đề Kuwait. Syria đã tham gia vào liên quân chống lại Saddam nhưng Israel vẫn chính thức giữ thái độ trung lập dù đã có những cuộc tấn công tên lửa vào thường dân Israel. Chính quyền Bush đã thuyết phục Israel đứng ngoài cuộc chiến với những hứa hẹn về việc tăng cường viện trợ, trong khi Tổ chức Giải phóng Palestine dưới quyền lãnh đạo của Yasser Arafat hoàn toàn ủng hộ Saddam Hussein, sau này dẫn tới một sự tuyệt giao trong quan hệ giữa Palestine-Kuwait, dẫn tới sự trục xuất nhiều người Palestine ra khỏi Kuwait.

Ngày 12 tháng 1 năm 1991 Hạ viện Hoa Kỳ cho phép sử dụng sức mạnh quân sự để trục xuất quân Iraq ra khỏi Kuwait. Ngay sau đó, các nước đồng minh khác cũng làm điều tương tự.

Một ngày sau thời hạn chót do Nghị quyết của Liên Hợp Quốc đặt ra, liên minh tung ra một cuộc tấn công không quân ồ ạt với mật danh "Chiến dịch bão táp sa mạc" với hơn 1.000 lần xuất kích một ngày, bắt đầu từ sáng sớm ngày 17 tháng 1 năm 1991. Năm tiếng đồng hồ sau những cuộc tấn công đầu tiên, đài phát thanh quốc gia Bagdad phát đi một giọng nói được xác định là của Saddam Hussein tuyên bố rằng "Cuộc chiến vĩ đại, cuộc chiến của mọi cuộc chiến đã bắt đầu. Bình minh thắng lợi đã rất gần khi cuộc thử thách cuối cùng đã đến."

Những vũ khí được sử dụng trong chiến dịch này gồm các vũ khí dẫn đường chính xác (hay "bom thông minh"), bom bầy, BLU-82 "daisy cutters" và tên lửa hành trình. Iraq trả lời bằng cách phóng 8 tên lửa Scud vào Israel ngày hôm sau. Mục tiêu ưu tiên hàng đầu của liên minh là phá hủy các cơ sở không quân và phòng không của Iraq. Nhiệm vụ này được nhanh chóng hoàn thành và trong suốt thời gian xảy ra cuộc chiến, không quân liên minh hầu như không gặp phải trở ngại nào khi hoạt động. Dù khả năng phòng không của Iraq tốt hơn so với dự đoán, liên minh chỉ thiệt hại một máy bay trong ngày mở màn chiến tranh. Máy bay tàng hình đã được sử dụng nhiều trong giai đoạn đầu tiên này nhằm tránh các hệ thống tên lửa đất đối không SAM dày đặc của Iraq; khi đã phá hủy xong những hệ thống đó, các kiểu máy bay khác có thể được đem ra sử dụng với độ an toàn cao hơn. Đa số các phi vụ tấn công xuất phát từ Ả Rập Xê Út và sáu nhóm tàu sân bay của liên minh ở Vịnh Péc-xích.

Các mục tiêu tiếp theo của liên quân là các sở chỉ huy và thông tin. Những nhà lập kế hoạch bên phía liên quân hy vọng sự kháng cự của Iraq sẽ nhanh chóng sụp đổ nếu hệ thống chỉ huy và liên lạc của họ bị phá hủy. Trong tuần đầu tiên của chiến dịch không quân Iraq ít khi xuất kích và cũng không gây thiệt hại gì đáng kể, 38 máy bay MiG của Iraq đã bị không quân liên quân bắn hạ. Ngay sau đó, không quân Iraq bắt đầu chạy trốn sang Iran, với khoảng 115 tới 140 chiếc[12]. Cuộc bỏ chạy ồ ạt của không quân Iraq sang Iran khiến các lực lượng liên quân rất kinh ngạc và không kịp phản ứng gì trước khi các máy bay Iraq đã "an toàn" tại các sân bay Iran. Iran không bao giờ trả lại các máy bay đó cho Iraq và chỉ cho phép các phi công trở về nước vào năm sau. Ngày 23 tháng 1, Iraq bắt đầu đổ gần 1 triệu tấn dầu thô xuống vịnh, gây ra vụ tràn dầu lớn nhất trong lịch sử.

Giai đoạn thứ ba và là lớn nhất của chiến dịch không quân nhắm tới các mục tiêu quân sự trên khắp Iraq và Kuwait: các bệ phóng tên lửa Scud, các địa điểm vũ khí hủy diệt hàng loạt, những cơ sở nghiên cứu vũ khí và các lực lượng hải quân. Khoảng một phần ba không lực liên quân được dành riêng để tấn công các bệ phóng tên lửa Scud, nằm trên các xe tải và do đó rất khó tìm kiếm để tiêu diệt. Ngoài ra, họ cũng nhắm vào các mục tiêu có thể sử dụng được cho cả mục đích dân sự và quân sự: các nhà máy điện, các lò phản ứng hạt nhân, các thiết bị thông tin liên lạc, các cảng biển, các nhà máy lọc và phân phối xăng dầu, các đường sắt và các cây cầu. Các nhà máy điện trên toàn quốc bị phá hủy. Tới cuối cuộc chiến, việc sản xuất điện chỉ còn đạt mức 4% so với trước chiến tranh. Bom đã phá hủy tất cả các đập chính, đa số những trạm bơm chính và nhiều nhà máy xử lý nước thải. Một số đội thuộc các lực lượng đặc biệt của Mỹ và Anh được đưa thâm nhập vào phía tây Iraq để tìm kiếm và phá hủy các tên lửa Scud. Tuy nhiên, vì thiếu những điều kiện địa lý thích hợp để ẩn náu khiến các hoạt động của họ gặp nhiều khó khăn và nhiều người đã bị giết hoặc bị bắt giữ.

Trong đa số các trường hợp, liên quân tránh gây thiệt hại tới những cơ sở dân sự thuần tuý. Tuy nhiên, ngày 13 tháng 2 năm 1991, hai quả bom thông minh điều khiển bằng tia laser đã phá hủy lô cốt Amiriyah mà người Iraq cho là nơi tránh bom của thường dân. Các quan chức Mỹ cho rằng lô cốt đó là một trung tâm thông tin quân đội, nhưng các nhà báo phương tây đã không tìm được bằng chứng về việc đó. Trong một báo cáo với nhan đề "Bộ máy nói dối: Thảm kịch của sự lừa đảo", Nhà Trắng đã tuyên bố rằng các nguồn tin tình báo của họ cho thấy lô cốt này đang được sử dụng cho mục đích chỉ huy quân sự[13]. Trong cuốn sách của mình, Kẻ chế tạo bom của Saddam, cựu giám đốc chương trình vũ khí hạt nhân của Iraq, người đã đào thoát sang phương tây, ủng hộ giả thuyết rằng lô cốt này được sử dụng cho cả hai mục đích.

Chúng tôi đã tìm người trú ẩn nhiều lần tại lô cốt.... Nhưng nó luôn bị bịt kín.... Lô cốt có vô tuyến, vòi nước uống, máy phát điện riêng, và trông đủ vững chắc để chống lại các loại vũ khí thông thường. Nhưng tôi đã thôi tìm cách vào trong, bởi một đêm tôi đã nhận ra vài chiếc limousine đen chạy ra chạy vào qua cánh cổng ngầm ở phía sau. Tôi hỏi những người ở xung quanh và được trả lời rằng đó là một trung tâm chỉ huy. Sau khi xem xét nó kỹ càng hơn, tôi đã cho rằng có thể nó là căn cứ điều hành riêng của Xát-đam.

Iraq đã tung ra các cuộc tấn công tên lửa vào các căn cứ của liên quân tại Ả Rập Xê Út và Israel, với hy vọng buộc Israel tham gia cuộc chiến và các nước Ả Rập khác rút lui khỏi nó. Chiến thuật này tỏ ra không hiệu quả. Israel không tham gia vào liên quân, và tất cả các nước Ả Rập ở lại với liên quân trừ Jordan, về mặt chính thức vẫn giữ thái độ trung lập. Các tên lửa Scud nói chung là gây ra rất ít thiệt hại, dù nó cũng đã một lần chứng minh được sức mạnh vào ngày 25 tháng 2 với 28 người Mỹ đã thiệt mạng khi một tên lửa Scud phá hủy doanh trại của họ tại Dhahran. Những tên lửa Scud nhắm vào Israel không có hiệu quả bởi vì khi tăng tầm bắn, tên lửa Scud bị giảm đi rất nhiều về độ chính xác và khả năng sát thương. Ngày 29 tháng 1, Iraq dùng xe tăng, bộ binh tấn công và chiếm thành phố Khafji của Ả Rập Xê Út lúc ấy dang được bảo vệ bởi một số lính thủy đánh bộ trang bị vũ khí hạng nhẹ. Tuy nhiên, Trận Khafji đã kết thúc khi quân Iraq phải lùi bước trước các lực lượng Ả Rập Xê Út được các lính thủy đánh bộ và không quân Mỹ yểm trợ hai ngày sau đó. Ngay sau khi Iraq xâm chiếm Kuwait, Khafji đã trở thành một thành phố có vị trí chiến lược. Sự chậm chạp của Iraq khi đưa các sư đoàn thiết giáp vào Khafji và sau đó dùng nơi này làm bàn đạp để tiến vào phần phía đông được bảo vệ kém cỏi của Ả Rập Xê Út là một sai lầm lớn về chiến lược. Nếu làm được như vậy, Iraq không chỉ kiểm soát được phần lớn những nguồn cung cấp dầu ở Trung Đông mà sau đó còn đe dọa được lực lượng quân Mỹ triển khai dọc theo các đường chiến tuyến.

Hiệu quả của chiến dịch không quân là đã làm thiệt hại mười phần trăm toàn bộ lực lượng quân sự Iraq được triển khai trên sa mạc. Chiến dịch này cũng ngăn chặn một cách có hiệu quả việc tiếp tế của Iraq cho những đơn vị đồn trú chiến đấu phía trước, và khiến số quân đông đảo (450.000) người không thể tập trung lại được và là nhân tố căn bản dẫn đến thắng lợi.

Chiến dịch không quân có một tác động rõ nét trên các mưu mẹo mà các bên xung đột về sau này sử dụng. Họ không tập trung quân đội để đối mặt với quân Mỹ mà phân tán các sư đoàn ra, ví dụ Các lực lượng Serbia tại Kosovo. Các bên tham chiến cũng giảm bớt khoảng cách tiếp tế hậu cần và diện tích vùng bảo vệ. Điều này đã được thấy trong Chiến tranh Afghanistan khi quân Taliban rút lui khỏi những vùng đất rộng lớn về giữ những cứ điểm mạnh của họ. Điều này giúp tăng cường tập trung quân đội và giảm bớt khoảng cách tiếp tế. Chiến thuật này cũng được sử dụng trong cuộc tấn công của Iraq khi các lực lượng Iraq rút lui khỏi miền bắc Kurdistan thuộc Iraq vào trong các thành phố.

Ngày 22 tháng 2 năm 1991, Iraq đồng ý với một thỏa thuận ngừng bắn do Liên Xô đề xuất. Thỏa thuận kêu gọi Iraq rút quân khỏi những vị trí mà họ đã chiếm trong ba tuần sau khi ngừng bắn hoàn toàn, và đề xuất việc theo dõi ngừng bắn và rút quân sẽ do Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc giám sát. Hoa Kỳ phản đối đề nghị này nhưng nói rằng việc rút quân của Iraq sẽ không bị tấn công, và trao cho Iraq hai mươi bốn giờ để rút các lực lượng quân đội.

Ngày 24 tháng 2, các lực lượng do Mỹ cầm đầu bắt đầu "Chiến dịch Bão cát sa mạc" (Desert Storm), phần trên mặt đất của chiến dịch của họ. Ngay sau đó, lính thủy đánh bộ Mỹ và các đồng minh Ả Rập của họ thâm nhập sâu vào Kuwait, thu thập hàng nghìn quân Iraq đang tan rã, đã suy yếu và mất tinh thần sau chiến dịch ném bom ồ ạt của liên quân. Vài ngày sau chiến dịch, Thành phố Kuwait được giải phóng bởi các đơn vị thuộc quân đội Kuwait.

Cùng lúc ấy, Quân đoàn VII Hoa Kỳ tung ra cuộc tấn công ồ ạt bằng xe bọc thép vào Iraq, từ phía tây Kuwait, khiến quân Iraq hoàn toàn bất ngờ. Sườn trái của đội quân này được Sư đoàn bọc thép hạng nhẹ số 6 của Pháp bảo vệ (gồm cả các đơn vị của Tiểu đoàn Lê dương Pháp), và sườn phải bởi Sư đoàn thiết giáp số 1 Hoàng gia Anh. Khi liên quân đã thâm nhập sâu vào lãnh thổ Iraq, họ quay sang phía đông, tung ra những cuộc tấn công vào lực lượng Vệ binh cộng hoà Iraq. Những trận chiến xe tăng nổ ra khi Vệ binh cộng hòa tìm cách rút lui, khiến cho liên quân chiến thắng mà chỉ bị thương vong ở mức thấp nhất.

Khi Iraq đã quyết định rằng họ sẽ không tiến về phía các giếng dầu phía đông của Ả Rập Xê Út, thì không có lý do gì để các lực lượng Iraq triển khai xa hơn nữa về phía nam Thành phố Kuwait với số lượng lớn. Quyết định triển khai một lực lượng khá đông đảo quân dọc theo biên giới Kuwait càng làm tăng khoảng cách tiếp tế của quân Iraq một cách không cần thiết. Thứ hai, khi đã quyết định triển khai quân dọc biên giới, việc mở rộng nó ra càng khiến nguy cơ bị tấn công ồ ạt vào sườn. Quả thực người Iraq không có đủ lực lượng để giữ một mặt trận đủ dài dọc theo biên giới Kuwait và tây nam Iraq. Vì thế việc cấp thiết là việc triển khai quân và thu hẹp mặt trận chỉ ở phía nam Thành phố Kuwait và mở rộng tới vùng ngoại ô Basra. Iraq chỉ có một lợi thế tuyệt đối trước lực lượng liên quân ở số lượng và chất lượng pháo binh. Đa số các đơn vị pháp binh Iraq được kéo bằng xe và vì thế không thích ứng tốt với việc phát triển mở rộng. Điều này cũng có nghĩa là Iraq muốn làm chậm sự di chuyển của quân địch và giao chiến dọc theo các giới tuyến không dễ dàng bị chọc thủng hay đánh ngang sườn.

Đà tiến của liên quân mau lẹ hơn những tướng lĩnh Hoa Kỳ trông đợi. Ngày 26 tháng 2, quân đội Iraq bắt đầu rút khỏi Kuwait, đốt cháy các giếng dầu mà họ bỏ lại. Một đoàn quân Iraq dài dằng dặc rút lui dọc theo đường cao tốc Iraq-Kuwait. Đoàn quân này bị liên quân tấn công liên tục tới mức nó được gọi là "Xa lộ chết". Một trăm giờ sau khi chiến dịch trên bộ bắt đầu diễn ra, Tổng thống Bush tuyên bố một sự ngừng bắn và ngày 27 tháng 2 tuyên bố rằng Kuwait đã được giải phóng.

Cả hai phía có số quân gần tương đương nhau - xấp xỉ 540.000 bên liên quân và xấp xỉ 650.000 bên Iraq. Một đội quân Thổ Nhĩ Kỳ gồm 100.000 người đang được triển khai dọc biên giới chung Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq. Điều này khiến quân đội Iraq bị phân tán thêm vì buộc phải triển khai quân dọc theo biên giới với tất cả các nước (trớ trêu thay, chỉ trừ phía biên giới với đối thủ cũ là Iran). Điều này cho phép cuộc tấn công mạnh mẽ của Hoa Kỳ không chỉ có được một sự vượt trội về kỹ thuật mà cả về số lượng.

Điều ngạc nhiên nhất của chiến dịch trên bộ là tỷ lệ thương vong thấp của liên quân. Điều này vì quân Iraq không thể tìm ra một biện pháp đối phó thích hợp đối với những ống nhòm hồng ngoại và loại đạn xuyên giáp động năng APFSDS từ các xe M1 Abrams. Phương tiện này cho phép những chiếc xe tăng liên quân chiến đấu và tiêu diệt một cách hiệu quả các xe tăng Iraq từ khoảng cách xa gấp 2 lần khoảng cách có thể tác chiến của xe tăng Iraq. Các lực lượng Iraq cũng không thể lợi dụng ưu thế có thể có từ việc sử dụng chiến thuật chiến tranh đô thị - chiến đấu bên trong Thành phố Kuwait, có thể gây ra những thương vong đáng kể đối với các lực lượng tấn công. Chiến tranh trong thành phố làm giảm tầm chiến đấu và vì thế giảm bớt ưu thế công nghệ của liên quân. Điều này đã được chứng minh gần đây trong những trận đánh giữa các lực lượng Mỹ và những kẻ nổi dậy Iraq trong môi trường đô thị sau Cuộc xâm lược Iraq năm 2003. Các ranh giới của địa lý đô thị, và sự hiểu biết mà những kẻ tấn công không thể có được, sẽ làm giảm lợi thế của liên quân và khả năng tiêu diệt ở tầm xa của họ.

Một hội nghị hòa bình đã được Liên quân tổ chức trên vùng lãnh thổ Iraq bị chiếm đóng. Tại hội nghị, Iraq được phép sử dụng các máy bay trực thăng vũ trang trong phía biên giới lãnh thổ nước mình, bề ngoài là để vận chuyển các quan chức chính phủ do những thiệt hại đã phải hứng chịu của hệ thống vận chuyển công cộng. Một thời gian ngắn sau, những chiếc trực thăng đó - và đa số các lực lượng vũ trang Iraq - lại quay sang phục vụ mục tiêu chiến đấu chống lại cuộc nổi dậy của người Shiite ở phía nam. Tại phía bắc, các lãnh đạo người Kurd tin tưởng vào những lời tuyên bố của Hoa Kỳ rằng họ sẽ ủng hộ một cuộc nổi dậy và bắt đầu chiến đấu, với hy vọng thực hiện được một cuộc đảo chính. Tuy nhiên, khi những giúp đỡ của Mỹ còn chưa tới nơi, các tướng lĩnh Iraq còn trung thành đã đàn áp dã man quân đội người Kurd. Hàng triệu người Kurd đã phải chạy qua các vùng núi để đến những vùng người Kurd tại Thổ Nhĩ Kỳ và Iran. Những vụ xung đột đó sau này đã dẫn tới việc thành lập những vùng cấm bay ở cả phía bắc và phía nam Iraq. Tại Kuwait, gia đình Emir được tái lập và những kẻ bị cho là cộng tác với Iraq bị đàn áp. Cuối cùng, hơn 400.000 người đã bị trục xuất khỏi đất nước, gồm một số lượng lớn người Palestine (vì sự ủng hộ và hợp tác của họ với Saddam Hussein).

Có một số chỉ trích chính quyền Bush về quyết định của họ cho phép Saddam Hussein tiếp tục giữ quyền lực, chứ không tiếp tục tấn công chiếm Baghdad và sau đó lật đổ chính phủ của ông ta. Trong một cuốn sách viết chung năm 1998 tựa đề, "Một thế giới đã thay đổi" (A World Transformed), Bush và Brent Scowcroft đã đưa ra lý lẽ rằng một sự tấn công như vậy sẽ làm tan vỡ lực lượng Liên quân và sẽ gây ra nhiều tổn thất chính trị và nhân mạng không cần thiết đi cùng với nó.

Năm 1992, Ngoại trưởng Hoa Kỳ trong thời gian chiến tranh, Dick Cheney, cũng đưa ra quan điểm tương tự[14]:

Và điểm cuối cùng mà tôi nghĩ là cần phải đưa ra vấn đề về thương vong. Tôi không nghĩ rằng bạn có thể thực hiện điều đó mà không có thêm tổn thất khá lớn của phía Hoa Kỳ. Và trong khi tất cả mọi người đều rất ấn tượng trước mức độ tổn thất nhỏ của cuộc xung đột (1991), đối với 146 người Mỹ thiệt mạng trong khi thi hành nhiệm vụ và đối với gia đình họ, đó không phải là một cuộc chiến ít tổn thất.

Và câu hỏi trong đầu tôi là bao nhiêu thương vong thêm nữa của Hoa Kỳ sẽ tương xứng với giá trị của Saddam (Hussein)? Và câu trả lời là nó chẳng đáng gì lắm. Vì thế, tôi nghĩ chúng ta đã làm đúng, cả khi chúng ta quyết định trục xuất ông ta khỏi Kuwait, và khi tổng thống đưa ra quyết định rằng chúng ta đã hoàn thành các mục tiêu của mình và chúng ta sẽ không sa lầy vào đó khi tìm cách chiếm và cai quản Iraq.

Thay vì tiếp tục can thiệp sâu thêm với lực lượng quân sự của mình, Hoa Kỳ đã hy vọng rằng Saddam sẽ bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính từ bên trong. CIA đã sử dụng các mạng lưới của mình tại Iraq để tổ chức một cuộc nổi dậy, nhưng chính phủ Iraq đã đánh bại âm mưu đó.

Ngày 10 tháng 3 năm 1991, Chiến dịch bão táp sa mạc bắt đầu dời 540.000 quân Mỹ ra khỏi Vịnh Péc xích.

Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ báo cáo là các lực lượng Hoa Kỳ có 148 binh sĩ tử trận, cộng một phi công được ghi nhận là mất tích (hài cốt đại úy phi công Michael Scott Speicher người được coi là mất tích đã được tìm thấy vào tháng 7 năm 2009 tại vùng núi hẻo lánh ở miền tây Iraq) (145 người Mỹ chết vì tai nạn). Vương quốc Anh có 24 binh sĩ tử trận, Pháp 2, và các quốc gia Ả Rập có tổng cộng 39 thương vọng.[22]

Thiệt hại nặng nhất trong một vụ đối với lực lượng liên quân xảy ra ngày 25 tháng 2 năm 1991 khi một hoả tiễn Al-Hussein của Iraq đánh trúng trại lính Mỹ tại Dhahran, Ả Rập Xê Út giết chết 28 quân dự bị Hoa Kỳ đến từ tiểu bang Pennsylvania.

Con số bị thương trên chiến trường dường như là khoảng 776, gồm có 467 người Mỹ.[23]

Khoảng 30% trong số 700.000 nam và nữ phục vụ trong lực lượng Hoa Kỳ tại Chiến tranh Vùng Vịnh vẫn chịu nhiều hội chứng trầm trọng mà nguyên nhân vẫn chưa được hiểu rõ.[24]

Trước chiến tranh, các giới chức của Lầu Năm Góc đã phỏng đoán con số thương vong của liên quân sẽ là vào khoảng 30.000-40.000 người.

Viện Dupuy trước Quốc hội Hoa Kỳ đã tiên đoán rằng con số thương vong sẽ dưới 6.000. Họ đã dùng mô hình TNDM mà tận dụng các dữ liệu lịch sử từ các cuộc chiến trước để tiên đoán con số thương vong (mô hình đã tận dụng các yếu tố về con người thí dụ như tinh thần và họ tiên đoán rằng sẽ có rất ít các sư đoàn của Iraq chịu kháng cự).

Ước đoán ngay vào lúc đó cho rằng có đến 100.000 người Iraq bị thiệt mạng. Hiện tại ước đoán rằng Iraq bị thiệt hại nhân mạng là khoảng từ 20.000 đến 35.000. Tuy nhiên, các con số khác thì vẫn cứ cho rằng con số người thiệt mạng có thể cao đến 200.000.[25]

Một báo cáo do Không quân Hoa Kỳ uỷ nhiệm đã ước tính là có khoảng từ 10.000-12.000 binh sĩ Iraq tử trận trong chiến dịch của không quân và khoảng 10.000 thương vong trong cuộc chiến trên bộ.[26] Sự phân tích này dựa vào các báo cáo về tù binh chiến tranh Iraq.

Chính phủ Iraq tuyên bố có khoảng 2.300 thường dân thiệt mạng trong chiến dịch của không quân, đa số người chết là do một cuộc không kích bằng máy bay tàng hình F-117 vào một nơi mà được tin là trung tâm thông tin liên lạc của Iraq tại Baghdad nhưng cũng là nơi phục vụ như một nơi trú ẩn máy bay.

Theo Dự án nghiên cứu sự chọn lựa khác cho quốc phòng Lưu trữ 2016-01-04 tại Wayback Machine thì có đến 3.664 thường dân Iraq và khoảng 20.000 đến 26.000 binh sĩ bị giết chết trong cuộc xung đột này.

Chi phí chiến tranh của Hoa Kỳ do Hạ viện tính toán là $61,1 tỷ. Các nguồn khác ước tính lên tới $71 tỷ. Khoảng $53 tỷ trong số đó do các nước khác chi trả: $36 tỷ do Kuwait, Ả Rập Xê Út và các nước Vùng Vịnh khác; $16 tỷ bởi Đức và Nhật Bản (hai nước này không gửi lực lượng chiến đấu vì các điều khoản trong các hiệp ước chấm dứt Chiến tranh thế giới thứ hai). Khoảng 25% số đóng góp của Ả Rập Xê Út được thanh toán dưới hình thức các dịch vụ cung cấp cho lực lượng liên quân như thực phẩm và vận chuyển. Nhiều lý lẽ cho rằng, Ả Rập Xê Út còn cung cấp cả gái mại dâm, nhưng sau này đã được chứng minh là không chính xác.

Quân đội Mỹ chiếm 74% tổng lực lượng liên quân, và vì thế tổng chi phí của họ cũng cao hơn. Anh, ví dụ, chi $4,1 tỷ trong cuộc chiến này.

Chiến tranh Vùng Vịnh là cuộc chiến được truyền hình ở mức độ rất cao. Lần đầu tiên tất cả mọi người trên thế giới đều có thể theo dõi trực tiếp hình ảnh các tên lửa lao vào các mục tiêu và các máy bay chiến đấu cất cánh từ các tàu sân bay. Các lực lượng liên quân rất nhiệt tình thể hiện mức độ chính xác các vũ khí của họ.

Tại Hoa Kỳ, nhóm "bộ ba lớn" điều hành mạng lưới tin tức đưa tin về cuộc chiến: Peter Jennings của ABC, Dan Rather của CBS và Tom Brokaw của NBC dẫn các chương trình thông tin buổi tối của họ khi các cuộc tấn công đã bắt đầu ngày 16 tháng 1 năm 1991. Phóng viên của ABC News Gary Shepard, bình luận trực tiếp từ Baghdad, nói với Jennings về sự tĩnh lặng của thành phố. Nhưng nhiều tháng sau, Shepard đã tái xuất hiện với những ánh chớp có thể được nhìn thấy ở chân trời và những vạch lửa đạn xung quanh trên mặt đất. Trên kênh CBS, khán giả có thể theo dõi bản tin của phóng viên Allen Pizzey, cũng đưa tin từ Baghdad, khi cuộc chiến bắt đầu. Sau khi bản tin kết thúc lại có tin rằng có những tin tức chưa được kiểm chứng về những vụ nổ tại Baghdad hoạt động không quân mạnh tại các căn cứ ở Ả Rập Xê Út. Trong bản tin "NBC Nightly News", phóng viên Mike Boettcher thông báo về những hoạt động không quân không thường xuyên ở Dhahran. Vài phút sau, Brokaw nói với khán giả rằng cuộc tấn công không quân đã bắt đầu. Nhưng chính kênh CNN được nhiều người theo dõi nhất. Các phóng viên CNN, John Holliman và Peter Arnett cùng CNN phóng viên thường trú Bernard Shaw đã thông báo qua điện thoại từ Khách sạn Al-Rashid khi những cuộc không kích bắt đầu. Báo chí khắp thế giới đều đưa tin về cuộc chiến và Tạp chí TIME đã xuất bản một số đặc biệt ngày 28 tháng 1 năm 1991, dòng tít "CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH" nổi bật ngoài trang bìa với bức ảnh chụp Baghdad khi cuộc chiến bắt đầu.

Chính sách của Hoa Kỳ về tự do báo chí có hạn chế hơn so với ở Chiến tranh Việt Nam. Chính sách này đã được giải thích rõ trong một tài liệu của Lầu Năm Góc tên là Annex Foxtrot. Đa số những thông tin báo chí có được đều từ những cuộc họp báo ngắn của quân đội. Chỉ những nhà báo được lựa chọn mới được phép tới mặt trận hay tiến hành các cuộc phỏng vấn binh sĩ. Những cuộc viếng thăm đó luôn được tiến hành với sự hiện diện của các sĩ quan, và sau đó đều phải được sự cho phép của quân đội và bộ phận kiểm duyệt. Điều này bề ngoài là để bảo vệ các thông tin nhạy cảm khỏi bị tiết lộ cho Iraq nhưng trên thực tế là để ngăn chặn tiết lộ các thông tin gây rắc rối về chính trị. Chính sách này bị ảnh hưởng nhiều từ những kinh nghiệm sau Chiến tranh Việt Nam, được cho rằng đã gây ra nhiều rò rỉ dẫn tới sự chống đối từ bên trong nước Mỹ.

Cùng lúc ấy, việc đưa tin nhanh nhạy về cuộc chiến là rất mới mẻ. Nhiều nhà báo Mỹ vẫn ở lại thủ đô Baghdad của Iraq trong suốt cuộc chiến, và cảnh tên lửa bay đến được chiếu ngay lập tức trên những bản tin vô tuyến buổi tối và trên các kênh tin tức qua truyền hình cáp như CNN. Một đoàn phóng viên của kênh CBS News (David Green và Andy Thompson), được trang bị thiết bị truyền thông tin vệ tinh đã tới mặt trận và truyền trực tiếp những hình ảnh cuộc chiến đang diễn ra. Họ tới Thành phố Kuwait một ngày trước khi các lực lượng liên quân tiến vào và truyền trực tiếp những hình ảnh các lực lượng Ả Rập (và các nhà báo khác!) tiến vào đó trong ngày hôm sau.

Theo sau những cuộc nổi dậy ở miền Nam và miền Bắc, các vùng cấm bay đã được thiết lập để bảo vệ người Shi'ite ở miền Nam và người Kurd ở miền Bắc. Những vùng cấm bay này (bắt đầu từ vĩ tuyến 36 Bắc và vĩ tuyến 32 Nam) chủ yếu do Mỹ và Anh kiểm soát, mặc dù Pháp cũng có tham gia ít nhiều. Cấu kết với nhau, họ đã thực hiện những chuyến bay thanh sát trong vòng 11 năm sau khi kết thúc chiến sự còn nhiều hơn cả trong thời kỳ chiến tranh. Những chuyến thanh sát này đã dội bom gần như mỗi ngày vào tên lửa đất đối không và súng cao xạ được dùng để bắn hạ máy bay. Tuy nhiên, lượng bom lớn nhất đã được sử dụng trong hai chiến dịch kéo dài: Chiến dịch Tấn công sa mạc, kéo dài trong nhiều tuần từ tháng 9 năm 1996, và Chiến dịch Con cáo sa mạc, tháng 12 năm 1998. Chiến dịch Kiểm soát miền Bắc, vùng cấm bay trong khu vực người Kurd, đã cho phép người dân tập trung vào tăng cường an ninh và phát triển cơ sở hạ tầng, điều này đã được phản ánh sau sự sụp đổ của chế độ Saddam Hussein năm 2003, khu vực này đã phát triển và ổn định hơn (khi so sánh với các vùng khác của Iraq trong Chiến dịch Giải phóng Iraq). Trái lại, Chiến dịch Kiểm soát miền Nam, đã không thành công trong việc tạo cho người Shi'ite cơ hội xây dựng và kiến thiết như vậy.

Cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề trên diện rộng trong suốt thời kỳ chiến sự đã gây mất mát cho người dân Iraq. Nhiều năm sau chiến tranh lượng điện sản xuất ra vẫn chỉ đạt một phần tư mức trước cuộc chiến. Việc phá hủy các nhà máy xử lý nước khiến nước thải bị đổ trực tiếp xuống sông Tigris, và dân cư lại lấy nước ở đây để sinh hoạt dẫn tới sự phát sinh dịch bệnh trên diện rộng. Những khoản vốn tài trợ từ phía các nước phương Tây nhằm giải quyết vấn đề này bị chính quyền Saddam sử dụng để duy trì quyền kiểm soát quân sự của mình.

Trừng phạt kinh tế vẫn được duy trì nhiều năm sau chiến tranh vì lý do từ những cuộc thanh sát vũ khí mà Iraq chưa bao giờ hợp tác đầy đủ. Sau này Iraq được Liên Hợp Quốc cho phép nhập khẩu một số hàng hóa theo chương trình Đổi dầu lấy lương thực. A 1998 bản báo cáo của UNICEF cho thấy những biện pháp trừng phạt khiến con số tử vong ở nước này tăng thêm 90.000 người mỗi năm. Nhiều người cho rằng các biện pháp trừng phạt Iraq và sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Ả Rập Xê Út góp phần làm xấu đi hình ảnh của Mỹ trong thế giới Ả Rập.

Một Cao ủy Đặc Biệt Liên Hợp Quốc (UNSCOM) về vũ khí đã được lập ra để giám sát việc tuân thủ của Iraq với các quy định về vũ khí hủy diệt hàng loạt và tên lửa đạn đạo. Iraq chỉ chấp nhận một số yêu cầu và từ chối các cuộc thanh sát vũ khí khác. Đội thanh tra đã tìm ra một số bằng chứng về các chương trình vũ khí sinh học tại một địa điểm và một số vi phạm tại nhiều địa điểm khác.

Năm 1997, Iraq trục xuất toàn bộ các thành viên người Mỹ bên trong phái đoàn thanh sát vũ khí, cáo buộc rằng Hoa Kỳ đã lợi dụng họ làm gián điệp; các thành viên của UNSCOM thường có những cuộc tiếp xúc với các cơ quan tình báo để cung cấp các thông tin về các địa điểm tàng trữ vũ khí. Đội thanh sát vũ khí tiếp tục quay lại Iraq trong giai đoạn 1997 và 1999 và còn gặp nhiều rắc rối hơn nữa; một thành viên trong đội thanh sát, Scott Ritter thuộc Hải quân Hoa Kỳ đã từ chức năm 1998, cho rằng chính quyền Clinton đang cản trở các cuộc thanh sát vì họ không muốn đối đầu thực sự với Iraq. Năm 1999, đội thanh sát được thay thế bởi UNMOVIC, cơ quan này bắt đầu tiến hành công việc từ năm 2002. Năm 2002, Iraq - và đặc biệt là Saddam Hussein - trở thành mục tiêu trong Cuộc chiến chống khủng bố của Hoa Kỳ, dẫn tới cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần hai năm 2003, do Hoa Kỳ và, ở tầm vóc thấp hơn, Anh lãnh đạo.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (quân đội nước này có nhiều mặt tương đồng với quân đội Iraq) rất ngạc nhiên trước khả năng kỹ thuật Hoa Kỳ trên trận địa. Thắng lợi mau chóng của liên quân khiến quân đội Trung Quốc phải thay đổi toàn diện tư tưởng quân sự của mình và bắt đầu một phong trào hiện đại hóa bên trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

Một hậu quả chủ chốt của Chiến tranh Vùng Vịnh, theo Gilles Kepel, là sự hồi sinh rõ rệt của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Việc chế độ Saddam bị lật đổ không khiến các nhóm Hồi giáo ủng hộ nhiều. Tuy nhiên, việc này, cùng với liên minh giữa Ả Rập Xê Út và Hoa Kỳ, bị coi là cùng phía với Israel càng làm chính phủ Ả Rập Xê Út mất uy tín trong nước. Hoạt động của các nhóm Hồi giáo chống lại chính quyền Ả Rập Xê Út tăng lên dữ dội. Trong một nỗ lực nhằm lấy lại hình ảnh của mình, Ả Rập Xê Út đã chi thêm tiền cho những nhóm ủng hộ chính phủ. Chính phủ Ả Rập Xê Út đã chi tiền phát hàng triệu cuốn Qur'an cho dân các nước mới độc lập ở vùng Trung Á và xây dựng hàng trăm thánh đường Hồi giáo cho những nhóm cực đoan. Tại Afghanistan, chính quyền Ả Rập Xê Út trở thành người bảo trợ hàng đầu cho Taliban trong cuộc nội chiến ở nước này, và là một trong những quốc gia duy nhất chính thức công nhận chính phủ đó.

Nhiều binh sĩ liên quân quay trở về từ chiến trường thông báo về các loại bệnh gặp phải sau khi tham chiến, một hiện tượng được gọi là Hội chứng Vùng Vịnh. Có nhiều nghiên cứu và bất đồng về các nguyên nhân gây ra hội chứng đó cũng như những ảnh hưởng của nó đối với trẻ sơ sinh (số lượng trẻ sinh ra trong các gia đình binh lính với các khiếm khuyết tương tự nhau hay những bệnh tật nghiêm trọng lên tới 67%, theo một cuộc nghiên cứu do Sở Cựu chiến binh Hoa Kỳ tiến hành[15]). Một báo cáo xuất bản năm 1994 của Văn phòng Giải trình Chính phủ cho rằng quân đội Mỹ đã đối diện với 21 loại "chất độc liên quan tới sinh sản" tiềm tàng. Một số nguyên nhân bị chỉ ra là tiếp xúc với các vật liệu phóng xạ, khói dầu, và các loại vắc xin bệnh than sản xuất quá nhanh dùng cho binh sĩ (các loại vắc xin thường cần phải trải qua quá trình sản xuất vài tháng).

Năm 1998, các bác sĩ của chính phủ Iraq đã báo cáo rằng việc liên quân sử dụng urani nghèo đã gây ra hàng loạt vụ khuyết tật ở trẻ sơ sinh và ung thư trong dân chúng Iraq, đặc biệt là bệnh bạch cầu. Các bác sĩ của chính phủ cho rằng họ không có đủ bằng chứng cho thấy có mối quan hệ giữa urani nghèo với những vụ khuyết tận trẻ sơ sinh bởi vì những biện pháp trừng phạt đã khiến họ không thể có được các thiết bị thử nghiệm cần thiết. Vì thế, một đội bác sĩ của Tổ chức sức khỏe thế giới đã tới Basra và đề xuất một cuộc nghiên cứu để điều tra lý do gây ra tỷ lệ ung thư cao ở miền nam Iraq, nhưng Saddam đã từ chối.

Tuy nhiên, Tổ chức y tế thế giới đã có thể tiếp cận với những nguy cơ đối với sức khỏe của urani nghèo tại những địa điểm đã xảy ra chiến tranh nhờ một phái đoàn năm 2001 tới Kosovo. Một báo cáo năm 2001 của WHO về urani nghèo đã kết luận: "bởi vì urani nghèo chỉ là phóng xạ yếu, cần phải hít vào những khối lượng rất lớn bụi (ở mức độ gam) để có thể tăng nguy cơ ung thư phổi ở mức độ có thể nhận thấy trong một nhóm nguy cơ. Những nguy cơ về ung thư phóng xạ khác gồm bệnh bạch cầu, được coi là thấp hơn rất nhiều so với ung thư phổi." Hơn nữa, "không có những tác động liên tục hay tiến triển đã được báo cáo ở người" vì lý do chịu tác động của urani nghèo[16].

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã xuất bản một cuốn sách về urani nghèo. Nó tuyên bố: "Tổ chức y tế thế giới và các nghiên cứu khoa học khác đã cho thấy urani nghèo không gây ra những nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khoẻ" và "urani nghèo không gây ra khuyết tật ở trẻ sơ sinh. Quân đội Iraq sử dụng các vũ khí hóa học và thần kinh trong thập kỷ 1980 và 1990 có thể là nguyên nhân gây ra cái gọi là khuyết tật ở trẻ em Iraq." Về những buộc tội gây ra ung thư, cuốn sách của Hoa Kỳ cho rằng "theo những chuyên gia về sức khỏe môi trường, về mặt y tế không thể coi việc nhiễm bệnh bạch cầu như là kết quả của việc chịu tác động của urani hay urani nghèo", và "tỷ lệ ung thư trong số 19.000 công nhân công nghiệp tiếp xúc với urani nghèo ở mức độ cao tại các dự án ở Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge trong giai đoạn 1943 và 1947 đã được xem xét, và việc tăng tỷ lệ ung thư không hề được quan sát thấy cho tới tận năm 1974. Các nghiên cứu dịch tễ học khác về ung thư phổi tại các công nhân làm việc tại nhà máy urani và nhà máy gia công thép không cho thấy tỷ lệ tăng bất thường hay sự liên quan tới những chất sinh ung thư khác đã được biết ngoài urani, như radon."[17]

Tuy nhiên, một số lời buộc tội về tác động đó rất nghiêm trọng bởi vì vũ khí chứa urani nghèo có thể vỡ ra thành những hạt nhỏ khi nó chạm mục tiêu.[18] Trên thực tế, những nghiên cứu tổng quát nhất gần đây bởi The Royal Society, một nhóm ái hữu với hơn 1400 nhà khoa học, nhà nghiên cứu và giáo sư đã tìm thấy rằng urani nghèo đưa lại những nguy cơ cao về sức khỏe cho dân thường cũng như binh lính[19].

Các loại vũ khí dẫn đường chính xác (PGMs, cũng được gọi là "bom thông minh"), như tên lửa AGM-130 của Không lực Hoa Kỳ được dự đoán sẽ trở thành các vũ khí chính cho phép các cuộc tấn công quân sự diễn ra với những tổn thất dân sự nhỏ nhất so với các cuộc chiến trước đó. Những căn nhà cụ thể ở các khu đông dân tại Baghdad có thể bị tấn công trong khi các nhà báo quan sát các tên lửa hành trình lao tới mục tiêu đó từ khách sạn của họ. Các vũ khí dẫn đường chính xác chiếm gần 7.4% toàn thể số bom liên minh sử dụng. Các loại bom khác gồm bom chùm có thể vỡ ra thành nhiều quả bom nhỏ, và những quả bom BLU-82 nặng 15.000 pound có thể phá hủy mọi vật trong bán kính hàng trăm yard.

Tên lửa Scud là tên lửa đạn đạo chiến thuật do Liên bang xô viết phát triển và từng triển khai cho những sư đoàn Hồng Quân tại Đông Đức. Vai trò của các tên lửa Scud được trang bị đầu đạn hạt nhân và đầu đạn hoá học là tiêu diệt các cơ sở thông tin, trung tâm chỉ huy và làm trì hoãn quá trình động viên quân đội của Tây Đức cũng như các lực lượng Đồng Minh tại Đức. Nó cũng được sử dụng để tiêu diệt trực tiếp các lực lượng mặt đất. Các tên lửa Scud sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính, còn hoạt động khi động cơ còn hoạt động. Iraq đã sử dụng các tên lửa Scud, phóng chúng tới cả Ả rập Xê út và Israel. Một số quả gây ra nhiều thương vong, số còn lại không gây hậu quả nặng nề. Đã có lo ngại việc Iraq có thể lắp các đầu đạn hoá học hay sinh học lên các tên lửa đó, nhưng nếu các đầu đạn đó có tồn tại, chúng cũng chưa từng được sử dụng. Mọi người tin rằng các tên lửa Scud không hữu dụng khi mang các đầu đạn hoá học bởi nhiệt độ cao trong quá trình bay ở tốc độ gần Mach 5 làm biến tính đa số các chất hoá học mang theo. Các vũ khí hoá học vốn thích hợp hơn khi được vận chuyển bằng máy bay ném bom hoặc các tên lửa hành trình. Tên lửa Scud thích hợp để mang các đầu đạn hạt nhân, một vai trò nó vẫn còn đảm nhận tới tận ngày nay, như mục tiêu thiết kế ban đầu.

Hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot của Hoa Kỳ lần đầu tiên được sử dụng trong chiến đấu. Thời điểm ấy, quân đội Hoa Kỳ tuyên bố hệ thống phòng thủ tên lửa này có hiệu suất thành công rất cao chống lại tên lửa Scud, đảm bảo an toàn cho liên quân. Nhưng những ước tính sau này về tính hiệu quả của Patriot rất khác biệt, thấp nhất có thể ở mức 0%. Hơn nữa, ít nhất đã xảy ra một vụ lỗi phần mềm gây tổn thất nhân mạng. [20] Những bằng chứng giải mật về hiệu quả ngăn chặn tên lửa Scud còn thiếu nhiều. Các con số ước tính hiệu quả cao dựa trên phần trăm số đầu đạn tên lửa Scud được biết đã tới mục tiêu hoặc đã nổ so với số lượng tên lửa Scud được bắn đi, nhưng các yếu tố khác như đầu đạn không nổ, bắn trượt vân vân không được tính vào đó. Một số phiên bản tên lửa Scud được sửa đổi động cơ vượt trên mức chịu đựng thiết kế thường bị cho là trượt mục tiêu hoặc nổ tung khi đang bay. Những ước tính thấp nhất thường dựa trên số lượng những lần bắn chặn và có bằng chứng cho thấy đầu đạn đã bị ít nhất một tên lửa bắn trúng, nhưng vì cách thức các tên lửa Al-Hussein (gốc từ Scud) nổ khi đang bay đến mục tiêu rất khó giải thích vì khó có thể biết đâu là mảnh đầu đạn và có ít dữ liệu ghi lại những lần dò tìm radar còn được lưu trữ cho phép phân tích về sau này. Thực tế hiệu lực thật sự của hệ thống còn là một bí mật trong nhiều năm nữa. Quân đội Hoa Kỳ và các nhà sản xuất vẫn cho rằng hệ thống Patriot đã "hoạt động tuyệt diệu" trong Chiến tranh Vùng Vịnh. [21]

Các đơn vị Hệ thống định vị toàn cầu đóng vai trò chủ chốt trong việc hoa tiêu dẫn đường cho quân đội vượt sa mạc. Hệ thống cảnh báo và kiểm soát trên không (AWACS) cũng như các hệ thống thông tin vệ tinh cũng có vai trò quan trọng.

590.911 480.000 63.000[15] 26.791[16] 17.000 7.430 5.455[17] 3.972 3.421,[18] 2,163[19] 1.389 1.273[20] 1.271 1.068 900 826 44

Hàn Quốc:137.899 tử trận[21]450.742 bị thương[21]24.495 mất tích[21] Hoa Kỳ:36.516 chết (bao gồm 2.830 không chiến đấu)92.134 bị thương8.176 mất tích7.245 tù binh[22] Anh Quốc:1.109 chết[23]2.674 bị thương1.060 mất tích hoặc bị bắt[24] Thổ nhĩ Kỳ:721 chết[25]2.111 bị thương168 mất tích216 tù binh Canada:516 chết[26]1.042 bị thương Australia:339[27]1.200 bị thương Pháp:300 chết hoặc mất tích[28] Hi Lạp:194 chết459 bị thương Colombia163 chết[29]448 bị thương2 mất tích28 bị bắt Thái Lan:129 chết1.139 bị thương5 mất tích[20] Hà Lan:123 chết[30] Philippines:112 chết[31] Bỉ:101 chết[32]478 bị thương5 mất tích New Zealand:33 chết[33] Nam Phi:28 chết8 mất tích[34] Luxembourg:2 chết[32]

Bắc Triều Tiên:(Số liệu chính thức):290.000 chết hoặc bị thương,90.000 bị bắt[35](Hoa Kỳ ước tính):215.000 chết, 303.000 bị thương,120.000 mất tích hoặc bị bắt[36] CHND Trung Hoa(Số liệu chính thức):183.108 chết (bao gồm số chết không trong chiến đấu)383.218 bị thương25.621 mất tích21.400 tù binh[35][37][38] (Hoa Kỳ ước tính):[36]400.000+ chết hoặc mất tích486.000 bị thương21.000 tù binh Liên Xô:282 chết[39]

Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và Hàn Quốc (với sự hỗ trợ đến từ Liên Hợp Quốc, trong đó quốc gia giữ vai trò nòng cốt là Hoa Kỳ). Chiến tranh bắt đầu từ ngày 25 tháng 6 năm 1950 và kết thúc bất phân thắng bại trong bế tắc vào ngày 27 tháng 7 năm 1953. Chiến tranh Triều Tiên là một trong những cuộc chiến lớn, khốc liệt và quốc tế hóa nhất kể từ sau Thế chiến 2. Đây là kết quả của chiến tranh Lạnh, những mâu thuẫn – xung đột liên Triều cùng sự phân cực của thế giới sau Thế chiến.[40][41]

Từ đầu thế kỷ 20, bán đảo Triều Tiên là một thuộc địa của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, bán đảo này bị chia cắt ở vĩ tuyến 38° Bắc thành hai vùng tập kết quân sự theo thỏa thuận của Đồng Minh. Liên Xô quản lý nửa phía Bắc trong khi Hoa Kỳ quản lý nửa phía Nam. Năm 1948, căng thẳng trong chiến tranh Lạnh dâng cao, các khu vực chiếm đóng hình thành hai nhà nước riêng biệt: một nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền bắc dưới sự lãnh đạo toàn trị của Kim Nhật Thành và một nhà nước tư bản chủ nghĩa ở miền nam dưới sự lãnh đạo độc tài của Lý Thừa Vãn. Cả hai đều tuyên bố là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn bộ bán đảo và không chấp nhận việc phân chia biên giới giữa hai miền là vĩnh viễn.

Được Liên Xô hậu thuẫn, Bắc Triều Tiên vượt qua biên giới và tổng tấn công Hàn Quốc vào ngày 25 tháng 6 năm 1950, sự kiện này diễn ra cùng lúc với các cuộc nổi dậy lớn của những người theo chủ nghĩa cộng sản ở miền Nam. Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc lên án hành động của Bắc Triều Tiên là một cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời cho phép thành lập Bộ chỉ huy Liên Hợp Quốc - đưa lực lượng quân sự quốc tế tới Hàn Quốc để chống lại hành động này với cá nhân quân đội Hoa Kỳ chiếm đa số.[42][43] Quyết định của Liên Hợp Quốc được đưa ra mà không có sự đồng thuận từ phía Liên Xô và Trung Quốc - hai quốc gia ủng hộ Bắc Triều Tiên.

Sau hai tháng đầu tiên, Bắc Triều Tiên với ưu thế tuyệt đối đã nhanh chóng chiếm được phần lớn lãnh thổ miền Nam. Các lực lượng Liên Hợp Quốc và Hoa Kỳ đóng tại Nhật Bản được triển khai tới hỗ trợ Hàn Quốc. Liên quân sau đó giành chiến thắng trong trận Vành đai Pusan.

Tháng 9 năm 1950, liên quân tiếp tục chiến thắng trong trận Nhân Xuyên, tiêu diệt phần lớn lực lượng Bắc Triều Tiên. Lúc này, họ quyết định phản công, đặt tham vọng chinh phục ngược lại toàn bộ lãnh thổ Bắc Triều Tiên để thống nhất bán đảo. Kế hoạch này gần đạt được thành công thì bị chặn lại bởi sự tham chiến của Chí nguyện quân Trung Quốc.

Trong giai đoạn sau của cuộc chiến, Bắc Triều Tiên phải hứng chịu hàng loạt chiến dịch ném bom chiến lược của Không quân Hoa Kỳ và Không quân Liên Xô cũng bí mật tham chiến dưới danh nghĩa "Chí nguyện Quân Nhân dân Trung Quốc" để bảo vệ đồng minh.

Hai năm cuối của cuộc chiến trở thành chiến tranh tiêu hao và xung đột vũ trang lẻ tẻ. Chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào ngày 27 tháng 7 năm 1953 với chỉ một hiệp định đình chiến.[44] Cuộc chiến tạm dừng sau khi Hiệp định đình chiến Triều Tiên được ký kết. Thỏa thuận này tạo ra khu phi quân sự liên Triều (DMZ) để ngăn cách Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, đồng thời cho phép bắt đầu tiến hành trao trả tù binh. Tuy nhiên, không có một hiệp ước hòa bình nào được ký kết và xét về mặt kỹ thuật, hai miền Triều Tiên vẫn đang trong trạng thái chiến tranh.[47][48]

Chiến tranh Triều Tiên là cuộc xung đột ngắn nhưng khốc liệt và có sức tàn phá khủng khiếp nhất ở châu Á trong thời kỳ hiện đại với hơn 3 triệu người tử vong sau 3 năm chiến đấu, số lượng dân thường thiệt mạng được ước tính thậm chí có thể còn lớn hơn chiến tranh Việt Nam (diễn ra gần 20 năm). Cuộc chiến gây ra sự tàn phá huỷ diệt ở hầu hết các khu vực trên bán đảo Triều Tiên, chia cắt vĩnh viễn hàng triệu gia đình người Triều Tiên, đồng thời khoét sâu hơn nữa vào sự chia rẽ tư tưởng giữa hai miền cho đến tận ngày nay.

Chiến tranh Triều Tiên bên cạnh xung đột quân sự còn xảy ra rất nhiều tội ác chiến tranh với hàng nghìn vụ thảm sát lớn nhỏ của cả hai bên, đơn cử như việc Hàn Quốc thảm sát hàng loạt tất cả những người bị tình nghi ủng hộ, hỗ trợ cho Bắc Triều Tiên hoặc có mối liên hệ với chủ nghĩa cộng sản còn Bắc Triều Tiên thì tra tấn, hành quyết và bỏ đói các tù binh chiến tranh. Đây cũng là một trong những cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại với 30 tỷ đô la Mỹ cho 3 năm chiến đấu vào thời điểm những năm 1950-1953, tương đương khoảng 325 tỷ theo thời giá hiện nay.[49]

Chiến tranh Triều Tiên khiến cho Bắc Triều Tiên trở thành một trong những quốc gia bị ném bom nặng nề nhất trong lịch sử đồng thời kéo theo nhiều cường quốc tham chiến. Bên cạnh đó, chỉ huy liên quân - tướng MacArthur còn chuẩn bị sẵn kế hoạch sử dụng bom nguyên tử nếu tình hình chiến sự đi quá giới hạn nhưng rồi ý tưởng của ông không được Harry Truman - tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm thông qua do lo ngại về Thế chiến 3.[50][51]

Tại Hàn Quốc, cuộc chiến thường được gọi là Ngày 25 tháng 6 hoặc Chiến tranh ngày 25 tháng 6 (tiếng Triều Tiên: 6·25 전쟁), là ngày khởi đầu của cuộc xung đột hay gọi chính thức hơn Hàn Quốc chiến tranh (tiếng Triều Tiên: 한국전쟁, phiên âm latinh: "Hanguk Jeonjaeng"). Tại Bắc Triều Tiên, trong khi thường được biết như là Chiến tranh Triều Tiên, cuộc chiến được gọi chính thức là Chiến tranh Giải phóng Tổ quốc (조국해방전쟁). Tại Hoa Kỳ, cuộc xung đột được gọi tên chính thức là Cuộc xung đột Triều Tiên hơn là một cuộc chiến tranh, chính yếu là tránh sự cần thiết có sự tuyên chiến của Quốc hội Hoa Kỳ. Cuộc chiến đôi khi được gọi là Cuộc chiến bị lãng quên và Cuộc chiến không được biết vì nó là một cuộc xung đột lớn trong thế kỷ XX ít được chú ý hơn Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra trước đó và Chiến tranh Việt Nam khốc liệt hơn xảy ra sau đó.[52] Tại Trung Quốc, cuộc chiến được biết đến với tên gọi Chiến tranh Kháng Mỹ viện Triều (抗美援朝, nghĩa là "Chiến tranh chống Mỹ và trợ giúp Triều Tiên") (朝鮮戰爭, Chaoxian Zhanzheng).[53]

Sau khi đánh bại quân Thanh trong Chiến tranh Trung - Nhật (1894-1895), các lực lượng Nhật Bản lưu lại và chiếm đóng những phần đất quan trọng chiến lược của Triều Tiên. Mười năm sau đó, người Nhật đánh bại hải quân Đế quốc Nga trong Chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905), đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc.[54] Nhật Bản chiếm đóng bán đảo Triều Tiên, mở rộng tầm kiểm soát của họ lên các cấp chính quyền địa phương bằng vũ lực và cuối cùng sáp nhập Triều Tiên vào Nhật Bản trong tháng 8 năm 1910.[55]

Tại Hội nghị Yalta vào tháng 2 năm 1945, lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin kêu gọi thành lập "các vùng đệm" tại châu Á và châu Âu.[56] Stalin tin rằng Liên Xô phải có tiếng nói quyết định tại Trung Quốc và để đổi lại việc nước này sẽ tham chiến chống Nhật Bản - hai hoặc ba tháng sau khi Đức Quốc Xã đầu hàng.[56]

Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản vào ngày 9 tháng 8 bắt đầu tấn công phía bắc bán đảo Triều Tiên. Như đã thỏa thuận với Mỹ, Liên Xô dừng quân lại ở vĩ tuyến 38 độ bắc. Quân đội Hoa Kỳ ở phần phía nam của bán đảo đầu tháng 9 năm 1945. Nhiều người Triều Tiên đã tiến hành tổ chức các hoạt động chính trị trước khi quân đội Hoa Kỳ đến.[57]

Ngày 10 tháng 8 năm 1945, khi mà sự đầu hàng của Nhật Bản đã trông thấy rõ, chính phủ Hoa Kỳ không biết chắc là người Nga có tôn trọng vào lời đề nghị đã được mình dàn xếp trước đó hay không. Một tháng trước đó, hai vị đại tá là Dean Rusk và Bonesteel đã vẽ đường phân giới tại vĩ tuyến 38 độ Bắc trong vòng nửa tiếng đồng hồ, sử dụng một bản đồ của Hội địa lý Quốc gia Hoa Kỳ để tham khảo.[58][59][60] Rusk, người sau này là Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ có nói rằng quân đội Hoa Kỳ lúc đó phải đối mặt với sự thiếu hụt lực lượng có sẵn tại chỗ cũng như gặp phải các yếu tố bất lợi về thời gian và quãng cách khiến quân đội khó mà có thể tiến về phía bắc nhanh chóng trước khi quân đội Liên Xô tiến vào khu vực.[56]

Liên Xô đồng ý lấy vĩ tuyến 38 làm đường phân giới tạm thời giữa hai vùng chiếm đóng trên bán đảo Triều Tiên. Thỏa thuận đạt được giao cho Liên Xô giải giới quân Nhật ở phần phía bắc của Triều Tiên và Hoa Kỳ ở phần phía nam.[61]

Vào ngày 8 tháng 9 năm 1945, trung tướng John R. Hodge của Hoa Kỳ đến Incheon để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật Bản ở phía nam vĩ tuyến 38. Được bổ nhiệm làm thống đốc quân đội, Tướng Hodge đã trực tiếp kiểm soát miền nam Triều Tiên với tư cách là người đứng đầu Chính phủ Quân đội Hoa Kỳ tại Triều Tiên (USAMGIK 1945-48). Ông đã cố gắng thiết lập sự kiểm soát bằng cách khôi phục lại sự cai trị của Nhật Bản đối với khu vực này, nhưng trước những cuộc biểu tình của người dân Triều Tiên, ông đã nhanh chóng đảo ngược quyết định.[63] USAMGIK từ chối công nhận chính phủ lâm thời của Cộng hòa Nhân dân Triều Tiên ở miền Bắc (PRK) do tư tưởng chống cộng của họ.

Tháng 12 năm 1945, Hoa Kỳ và Liên Xô thỏa thuận quản lý Triều Tiên dưới một Ủy ban Liên hiệp Mỹ-Xô. Thỏa thuận cũng nói rằng Triều Tiên sẽ được độc lập sau bốn năm quốc tế giám sát. Tuy nhiên, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã cho phép phần họ quản lý có một chính phủ do người Triều Tiên lãnh đạo trong khi đó các chính phủ của hai phần Triều Tiên lại ưa chuộng theo ý thức hệ của lực lượng chiếm đóng mình.

Tại Nam Triều Tiên, một nhóm cánh tả chống ủy trị được biết với tên gọi Hội đồng Đại diện Dân chủ ra đời với sự tiếp sức của lực lượng Hoa Kỳ mặc dù có một nghịch lý là nhóm này lại chống các thỏa ước do chính Hoa Kỳ bảo trợ. Vì người Triều Tiên đã chịu nhiều đau khổ dưới ách thực dân của Nhật Bản trong suốt 35 năm nên đa số người dân Triều Tiên chống đối một thời kỳ kế tiếp dưới sự cai trị của ngoại quốc.

Với thất bại của Ủy ban hỗn hợp trong việc dàn xếp, Mỹ đã đưa vấn đề Triều Tiên trình lên Liên Hợp Quốc vào tháng 9 năm 1947. Liên Xô lại phản đối mọi sự can thiệp của Liên Hợp Quốc vào nội bộ Triều Tiên. Vào thời điểm đó, Mỹ có tầm ảnh hưởng lớn hơn Liên Xô trong Liên Hợp Quốc.[64] Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết vào ngày 14 tháng 11 năm 1947, tuyên bố rằng một cuộc bầu cử tự do trên toàn bán đảo Triều Tiên nên được tổ chức, quân đội nước ngoài phải rút lui, và thành lập một Uỷ ban của LHQ về Triều Tiên gọi là UNTCOK. Liên Xô và chính quyền cộng sản ở phía Bắc đã tẩy chay bầu cử và không coi nghị quyết của LHQ mang tính chất ràng buộc, họ cho rằng LHQ không thể bảo đảm bầu cử công bằng. Không có sự hợp tác từ phía Liên Xô, người ta quyết định tổ chức cuộc bầu cử dưới sự giám sát của LHQ ở miền nam (mặc dù bầu cử ban đầu dự kiến sẽ được tổ chức trên toàn bán đảo).[65][66][67][68] Một số đại biểu UNTCOK cho rằng bầu cử chỉ tổ chức ở miền Nam đã tạo ra lợi thế không công bằng cho các ứng cử viên cánh hữu, nhưng ý kiến của họ đã bị bác bỏ. Không ngoài mong muốn của Mỹ, chính phủ đắc cử được lãnh đạo bởi Lý Thừa Vãn, một người Triều Tiên sống lưu vong tại Mỹ có tư tưởng chống cộng rất mạnh. Ông là một người Triều Tiên bị Nhật Bản cầm tù từ khi còn là một thanh niên và rồi trốn thoát sang Hoa Kỳ - nơi ông lấy được các cấp bằng đại học và sau đại học tại Đại học Georgetown, Đại học Harvard và Đại học Princeton. Hoa Kỳ ủng hộ Lý Thừa Vãn bởi ông là một tín đồ Thiên Chúa giáo rất ngoan đạo và có tư tưởng chống cộng cực kỳ mạnh mẽ.[69]

Tại miền Nam, Mỹ đã chủ động ủng hộ một chính phủ lâm thời do Lý Thừa Vãn đứng đầu. Lý Thừa Vãn gây áp lực cho chính phủ Mỹ từ bỏ chế độ quân quản và thành lập một nước Cộng hòa Hàn Quốc độc lập ở phía Nam [70] Vào ngày 19 tháng 7 năm 1947, Lyuh Woon-hyung, nhà chính trị gia cấp cao cuối cùng cam kết đối thoại, chết trong một vụ ám sát do Lý Thừa Vãn hậu thuẫn.[71] Chính quyền Lý Thừa Vãn tiến hành một số chiến dịch quân sự chống lại các phần tử nổi dậy phe cánh tả. Chỉ trong vài năm, từ 30.000 đến 100.000 người đã bị giết hại bởi các chiến dịch này.[72] Các chính trị gia miền Nam Kim Koo và Kim Kyu-sik cũng tẩy chay cuộc bầu cử, ngoài ra còn có một số đảng phái và chính trị gia khác. Kim Koo về sau bị ám sát bởi các thành phần cánh hữu ủng hộ Lý Thừa Vãn. Như vậy, chính quyền Lý Thừa Vãn đã loại bỏ hoàn toàn phe đối lập. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1948, nhà nước Đại Hàn Dân Quốc chính thức được thành lập ở miền nam, với Lý Thừa Vãn làm tổng thống đầu tiên.

Trước diễn biến trên, miền Bắc Triều Tiên đã đáp lại bằng một cuộc bầu cử quốc hội, vào tháng 9/1948, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tuyên bố thành lập, đứng đầu bởi lãnh tụ Kim Nhật Thành, một cựu chiến binh từng tham gia kháng chiến chống Nhật suốt 20 năm (CHDCND Triều Tiên tuyên bố cuộc bầu cử quốc hội của nước này không chỉ diễn ra công khai ở miền Bắc mà còn được tiến hành bí mật ở cả miền Nam). Về phần Liên Xô, họ chấp thuận và gia tăng nỗ lực giúp Kim Nhật Thành ở miền bắc. Nhờ uy tín khi từng là một chiến binh kháng chiến chống Nhật, cùng với tài năng chính trị, mối liên hệ với Liên Xô nên Kim Nhật Thành vươn lên thành lãnh đạo của chính quyền mới và dẹp bỏ bất cứ chống đối nào đến sự lãnh đạo của ông.[73] Kim Nhật Thành mong muốn thống nhất Triều Tiên.[74] Trước đó vào tháng 3 năm 1946, Kim Nhật Thành đã tiến hành một chương trình cải cách ruộng đất rộng lớn trên toàn miền Bắc. Đất đai thuộc sở hữu của những địa chủ Nhật Bản và cộng sự đã bị tịch thu và chia cho nông dân nghèo [75]. Cải cách ruộng đất của Bắc Triều Tiên đã được tiến hành một cách ít bạo lực hơn ở Trung Quốc và Việt Nam. Những người nông dân phản ứng tích cực, tuy nhiên, rất nhiều chủ sở hữu ruộng đất cũ (địa chủ) đã chạy trốn về phía nam, nơi một số người trong số họ có được vị trí trong chính phủ Hàn Quốc về sau. Ước tính 400.000 người Bắc Triều Tiên đã bỏ chạy xuống phía nam trong thời kỳ này.[76]

Năm 1949, cả hai lực lượng của Liên Xô và Hoa Kỳ rút khỏi Triều Tiên.

Khởi nghĩa Jeju (Hangul: 제주 4·3 사건, chữ Hán: 濟州四三事件, nghĩa là "Sự kiện 3 tháng 4 tại Jeju") là một cuộc khởi nghĩa trên đảo Jeju tại Nam Triều Tiên/Hàn Quốc kéo dài từ ngày 3 tháng 4 năm 1948 đến tháng 5 năm 1949.[77][78]:139, 193 Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khởi nghĩa là cuộc bầu cử dự kiến vào ngày 10 tháng 5 năm 1948 theo kế hoạch của Ủy ban Lâm thời Liên Hợp Quốc tại Triều Tiên (UNTCOK) nhằm hình thành một chính phủ mới cho toàn thể Triều Tiên. Tuy nhiên, bầu cử chỉ được lên kế hoạch tổ chức tại miền nam của Triều Tiên đang nằm dưới quyền kiểm soát của UNTCOK, trong khi không được tổ chức ở miền Bắc vì Liên Xô và chính quyền miền Bắc tẩy chay cuộc bầu cử. Trước cuộc bầu cử riêng rẽ ở phía Nam, các chiến binh du kích của Đảng Lao động Nam Triều Tiên (SKLP - một đảng anh em với Đảng Lao động Triều Tiên ở miền Bắc) đã phản ứng kịch liệt, tấn công cảnh sát địa phương trên đảo Jeju.[77][78]:166–167

Người chỉ huy lực lượng cảnh sát trên đảo là Trung tướng Kim Ik-ryeo nỗ lực nhằm kết thúc khởi nghĩa trong hòa bình bằng cách đàm phán với quân nổi dậy. Ông họp vài lần với thủ lĩnh Kim Dal-sam của SKLP song hai bên đều không nhất trí về các điều khoản. Chính phủ muốn quân nổi dậy đầu hàng hoàn toàn, còn quân nổi dậy cầu cảnh sát địa phương giải trừ quân bị, miễn nhiệm toàn bộ quan chức trên đảo, cấm chỉ các tổ chức thanh niên bán quân sự trên đảo và tái thống nhất đất nước Triều Tiên.[77][78]:174

Giao tranh tiếp tục sau khi đàm phán thất bại, Chính phủ Nam Triều Tiên đáp trả hoạt động du kích bằng cách triển khai các đại đội cảnh sát, mỗi đại đội có 1.700 người, từ các tỉnh miền nam đến Jeju.[78]:168 Ngày 17 tháng 11 năm 1948, Lý Thừa Vãn tuyên bố thiết quân luật nhằm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa. Trong giai đoạn này, Quân đội Nam Triều Tiên tham gia các hành động tàn bạo, một báo cáo mô tả sự kiện vào ngày 14 tháng 12 năm 1948 khi quân đội Nam Triều Tiên tấn công làng, bắt giữ nhiều nam nữ thanh thiếu niên, hiếp dâm tập thể các nữ thanh thiếu niên trong hai tuần lễ và hành quyết họ cùng các nam thanh niên.[79]

Ngày 1 tháng 1 năm 1949, du kích khởi nghĩa phát động cuộc tấn công cuối cùng chống quân đội Nam Triều Tiên nhưng thất bại.[78]:184–185 Quân đội Nam Triều Tiên truy kích các du kích quân và tiếp tục thực hiện các hành động tàn bạo, như tàn sát dân làng.[78]:186:58[80]:36 Chính phủ Nam Triều Tiên lúc này kiên quyết tiêu diệt tàn quân du kích, họ phát động một chiến dịch tiệt trừ trong tháng 3 năm 1949. Trong chiến dịch, 2.345 du kích quân và 1.668 thường dân bị giết.[78]:189

Hành động đàn áp tàn bạo của cảnh sát và quân đội Nam Triều Tiên dưới quyền kiểm soát của chính phủ Hoa Kỳ do James A. Casteel lãnh đạo, người chỉ huy lực lượng an ninh Jeju[81] Truyền thông Hoa Kỳ đưa ra tài liệu và công khai vụ tàn sát song quân đội Hoa Kỳ làm ngơ[82] Quân đội Hoa Kỳ sau đó gọi việc phá hủy hoàn toàn làng Jungsangan - tai họa lớn nhất trong sự kiện - là một "chiến dịch thành công".[83]

Nhìn chung, quân đội Nam Triều Tiên đã đàn áp vụ khởi nghĩa một cách đặc biệt tàn nhẫn.[77][78]:171[80]:13–14 Kết quả là khoảng 30.000 người thiệt mạng do khởi nghĩa, chiếm khoảng 10% dân số của đảo.[78]:195[80]:12 Khoảng 40.000 người khác phải sang Nhật Bản lánh nạn.[77][79]

Lý Thừa Vãn và Kim Nhật Thành đều mong muốn thống nhất bán đảo và đã tiến hành các cuộc tấn công quân sự dọc theo ranh giới suốt năm 1949 và đầu năm 1950.[84] Mặc dù Kim Nhật Thành và những đồng sự thân tín tin vào việc thống nhất đất nước bằng vũ lực, Stalin thì do dự không muốn bị lôi cuốn vào cuộc chiến mà có thể kích động gây ra một cuộc chiến với Mỹ.[85]

Ngày 12 tháng 1 năm 1950, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Dean Acheson đã nói rằng chu vi phòng thủ Thái Bình Dương được hình thành gồm có Quần đảo Aleutian, Nhật Bản, và Philippines, điều đó ám chỉ rằng Mỹ có thể không chiến đấu vì Triều Tiên. Acheson nói sự phòng thủ Triều Tiên sẽ là trách nhiệm của Liên Hợp Quốc.[86]

Vào giữa năm 1949, Kim Nhật Thành gây áp lực với Stalin rằng thời cơ đã đến để thống nhất bán đảo Triều Tiên. Kim Nhật Thành cần sự giúp đỡ của Liên Xô để tiến hành thành công một cuộc tấn công ngang qua bán đảo nhiều đồi núi và địa hình khó khăn.

Phía nam Triều Tiên do Mỹ chiếm đóng đoạt lại quyền lực từ những "Ủy ban Nhân dân" được điều hành theo từng địa phương và đã thiết lập lại nhiều địa chủ và cảnh sát cũ, những người đã từng phục vụ Nhật Bản khi Triều Tiên còn dưới sự đô hộ của Nhật Bản. Những động thái này gặp phải sự chống đối nặng nề và sự phản kháng công khai ở một số phần của Nam Triều Tiên như các đảo ở phía Nam.[87]

Sau một số vụ đụng độ ở biên giới (được cho là xuất phát từ lệnh của Mỹ), dường như cuộc chiến là không thể tránh khỏi. Những nhân chứng cho rằng việc đề xướng tái thống nhất đất nước của phía Bắc đã nhận được nhiều sự ủng hộ ở phía Nam.[87] Các tài liệu lưu trữ cho thấy[88][89][90] quyết định tấn công phía Nam là một quyết định của chính Kim Nhật Thành chứ không phải ý đồ từ Liên Xô.[91]

Suốt một năm sau, Bắc Triều Tiên đã rèn luyện quân đội của họ thành một cỗ máy chiến tranh có tính tấn công cao độ, một phần dựa theo khuôn mẫu của một lực lượng cơ giới Liên Xô nhưng được tăng cường sức mạnh chính yếu bởi một làn sóng trở về của những người Triều Tiên đã phục vụ trong Quân Giải phóng Nhân dân của Trung Quốc từ thập niên 1930.[92] Đầu năm 1950 thời gian quyết định tấn công càng gấp rút đối với cả Bình Nhưỡng và Moskva vì thời gian này các lực lượng an ninh của Lý Thừa Vãn đã quét sạch được gần như tất cả các nhóm quân du kích do Bình Nhưỡng gửi vào Nam Triều Tiên trong năm 1949. Khả năng thống nhất đất nước dường như tiêu tan và chính thể của Lý Thừa Vãn đang giành được lợi thế. Kim Nhật Thành đã có một chọn lựa cuối cùng là tấn công quân sự quy ước để thống nhất bán đảo Triều Tiên dưới sự kiểm soát của ông trước khi Nam Triều Tiên trở nên đủ mạnh để có thể tự vệ.[85]

Vào năm 1950, quân đội Bắc Triều Tiên được trang bị với những vũ khí Xô Viết tuy đã lỗi thời nhưng nó vẫn có lợi thế vượt trội hơn nhiều so với lực lượng Nam Triều Tiên về mọi mặt. Ngày 30 tháng 1 năm 1950, Stalin, qua điện báo, thông báo cho Kim Nhật Thành hay rằng ông sẵn lòng giúp Kim Nhật Thành trong kế hoạch thống nhất Triều Tiên. Trong những cuộc thảo luận theo sau đó với Kim Nhật Thành, Stalin đề nghị: ông muốn lãnh đạo cuộc chiến và nói rằng một năm tối thiểu 25 ngàn tấn hàng viện trợ có lẽ sẽ giúp ích cho Bắc Triều Tiên chiến thắng. Sau những lần viếng thăm Moskva của Kim Nhật Thành trong tháng ba và tháng 4 năm 1950, Stalin chấp thuận một cuộc tấn công.[69]

Mao Trạch Đông đã phản đối mạnh mẽ kế hoạch của Bắc Triều Tiên xâm chiếm Hàn Quốc cho đến 6 tuần trước khi nổ ra cuộc tấn công và ông chỉ thay đổi chính sách sau khi có chỉ thị của Stalin. Mao Trạch Đông đã bỏ qua lời khuyên của phần còn lại trong chính quyền phản đối cuộc chiến và trở thành người khởi xướng mạnh mẽ cho nó. Sự phản đối quyết liệt của Lâm Bưu, người đáng lẽ đã thống lĩnh các lực lượng Trung Quốc trong cuộc chiến khiến nhân vật này phải rời Trung Quốc sang Liên Xô một thời gian.[93][cần nguồn tốt hơn]

Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại sứ Liên Xô rằng ông ta có kế hoạch tấn công xuống phía Nam để "thống nhất đất nước". Stalin gửi một bức điện thể hiện ủng hộ kế hoạch, nhưng không nói gì với Mao Trạch Đông và cũng đồng ý cung cấp trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã cam kết cho năm 1951, để Kim Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với Stalin rằng ông ta có thể chiếm xong Hàn Quốc trước khi người Mỹ có thời gian cũng như ý định can thiệp.

Về mặt chính thức, Bắc Triều Tiên được cho là bên nổ súng trước và ngày 25/6/1950 được coi là ngày mở màn chiến tranh. Tuy nhiên các tài liệu gần đây cho thấy thực ra trước đó khoảng 1 năm, tình hình Triều Tiên vốn đã trở nên căng thẳng và Nam Triều Tiên đã mở nhiều cuộc đột kích nhỏ mang tính khiêu khích nhằm vào Bắc Triều Tiên. Ngay từ tháng 6/1949, hơn 250 biệt kích Nam Triều Tiên được cho là đã phát động một cuộc tấn công vào các làng ở Bắc Triều Tiên dọc theo bờ biển phía đông, với kết quả là đã có 200 biệt kích Nam Triều Tiên tử trận chỉ sau 2 tuần. Cuộc tấn công ngày 25/6/1950 của Bắc Triều Tiên được nói rằng chỉ là kết quả của một loạt xung đột đã xảy ra từ trước và thực ra cho đến tận ngày nay, vẫn chưa rõ ai là bên khai chiến trước.[94]

Cuộc tấn công phủ đầu của Quân đội Nhân dân Triều Tiên xảy ra vào sáng sớm ngày chủ nhật 25 tháng 6 năm 1950 bằng cách bất ngờ vượt qua vĩ tuyến 38 đồng thời được hậu thuẫn bởi một trận địa pháo bắn phá dữ dội vào phía trước.[92]

Được trang bị tốt với 135.438 binh sĩ[95] và 242 xe chiến đấu (bao gồm 150 xe tăng T-34 vài chục pháo tự hành hạng nhẹ SU-76) của Liên Xô chế tạo, quân đội Bắc Triều Tiên bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích Yak và 70 máy bay ném bom tấn công. Tuy vậy, lực lượng hải quân vẫn còn khá thô sơ (so với hải quân Hoa Kỳ gần đó). Điểm yếu trầm trọng nhất của Bắc Triều Tiên là thiếu một hệ thống tiếp vận đáng tin cậy để di chuyển đồ tiếp liệu về miền Nam khi quân đội của họ tiến lên về phía trước, nhưng lực lượng Nam Triều Tiên còn yếu hơn nếu đem so với Bắc Triều Tiên. Hàng ngàn người dân chạy loạn về phía nam bị quân đội Nam Triều Tiên bắt buộc xách tay đồ tiếp liệu.

Quân đội Nam Triều Tiên có 64.697 binh sĩ[95] được quân đội Mỹ huấn luyện và trang bị. Tuy nhiên, quân Hàn Quốc không có xe tăng và rất thiếu xe bọc thép cũng như pháo binh. Quân đội Nam Triều Tiên cũng không có máy bay tiêm kích, hoặc bất cứ pháo chống tăng nào. Không có đơn vị chiến đấu nào của ngoại quốc hiện diện tại đất nước khi chiến tranh bắt đầu, nhưng có nhiều lực lượng Hoa Kỳ đóng quân ở Nhật Bản gần đó.[96]

Cuộc tấn công được quân đội Bắc Triều Tiên hoạch định tốt với khoảng 135.000 quân, họ đạt được những thành công chớp nhoáng và bất ngờ.[96] Bắc Triều Tiên tấn công một số nơi quan trọng gồm có Kaesŏng, Chuncheon, Uijeongbu và Ongjin.

Trong mấy ngày đầu giao chiến, các lực lượng Nam Triều Tiên, bị thua sút về quân số và vũ khí, ý chí chiến đấu thấp và thiếu lòng trung thành với chính phủ miền Nam, đã tháo lui toàn bộ hoặc đào ngũ hàng loạt sang quân đội Bắc Triều Tiên.[97] Quân đội Hàn Quốc từ 100.000 người nhanh chóng giảm xuống còn 25.000 người do thương vong hoặc đào ngũ. Chính Lý Thừa Vãn và các quan chức cao cấp của ông ta cũng trốn chạy khỏi Seoul, chuẩn bị thành lập "chính phủ lưu vong" ở Nhật Bản.

Khi cuộc tấn công trên bộ tiếp tục, Không quân Bắc Triều Tiên tiến hành oanh tạc Phi trường Kimpo gần Seoul. Các lực lượng Bắc Triều Tiên chiếm được Seoul trưa ngày 28 tháng 6, chỉ 3 ngày sau khi phát động tấn công. Trong cuộc tháo lui hoảng loạn, quân Nam Triều Tiên đã giật mìn đánh sập nhiều cây cầu để ngăn đà tiến của Bắc Triều Tiên, bất chấp việc có nhiều thường dân vẫn còn đi trên đó. Các hành động này không có tác dụng là bao, quân đội Bắc Triều Tiên nhanh chóng chiếm được 95% lãnh thổ miền nam, quân Nam Triều Tiên chỉ còn kiểm soát một vùng nhỏ ở quanh thành phố cảng Busan.

Tuy nhiên, niềm hy vọng của Bắc Triều Tiên về việc chính phủ của Lý Thừa Vãn đầu hàng, sự giải tán quân đội Nam Triều Tiên và đất nước thống nhất đã tan thành mây khói, khi Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến để giúp đỡ cho Nam Triều Tiên.

Cuộc tấn công Nam Triều Tiên đến rất bất ngờ đối với Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác. Trong tuần trước đó, Acheson đã nói trước Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 6 là một cuộc chiến tranh như vậy khó có thể xảy ra.

Việc Mỹ tham chiến có một số lý do như sau; Harry Truman là tổng thống thuộc Đảng Dân chủ Hoa Kỳ đang chịu nhiều áp lực từ trong nước vì quá nhẹ tay đối với các nước theo chủ nghĩa cộng sản. Trong số những người gây áp lực đặc biệt nhất với tổng thống có Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Joseph McCarthy, ông chỉ trích gay gắt Đảng Dân chủ đã "làm mất Trung Hoa" vào tay Đảng cộng sản Trung Quốc. Sự can thiệp quân sự cũng là một việc áp dụng quan trọng học thuyết mới có tên là Học thuyết Truman, chủ trương chống đối lại chủ nghĩa cộng sản ở bất cứ nơi đâu mà nó tìm cách mở rộng. Những bài học của Hiệp ước Munich năm 1938 cũng có ảnh hưởng đến quyết định của Washington, khiến họ tin rằng nhân nhượng các quốc gia hiếu chiến chỉ khuyến khích thêm những hành động bành trướng.

Thay vì hối thúc Quốc hội tuyên chiến, Truman nghĩ rằng hành động như vậy làm mất thời giờ và gây náo động không cần thiết trong khi tình hình đang rất là cấp bách, ông quay sang xin chấp thuận từ Liên Hợp Quốc.

Ngay ngày chiến tranh chính thức bắt đầu (25 tháng 6), Liên Hiệp quốc nhanh chóng thảo ra Nghị quyết số 82 kêu gọi:[98]

Giải pháp được thông qua dễ dàng tại Hội đồng Bảo an do có sự vắng mặt tạm thời của Liên Xô trong Hội đồng Bảo an, Liên Xô tẩy chay Hội đồng Bảo an và phản đối rằng chiếc ghế của Trung Quốc ở Hội đồng Bảo an phải được chuyển từ tay Trung Hoa Dân Quốc sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Do Liên Xô vắng mặt nên giải pháp không bị phủ quyết (5 thành viên thường trực có quyền phủ quyết là Anh, Pháp, Trung Hoa Dân quốc, Liên Xô và Hoa Kỳ), và chỉ có Nam Tư bỏ phiếu trắng, Liên Hiệp quốc bỏ phiếu thông qua việc giúp Nam Triều Tiên vào ngày 27 tháng 6. Giải pháp đưa đến hành động trực tiếp của Mỹ. Lực lượng Mỹ có thêm binh sĩ và tiếp viện đến từ 16 quốc gia thành viên khác của Liên Hợp Quốc, bao gồm: Canada, Úc, New Zealand, Anh, Pháp, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan, Hy Lạp, Hà Lan, Ethiopia, Colombia, Philippines, Bỉ, Cuba (dưới thời kỳ cầm quyền của nhà độc tài Fulgencio Batista) và Luxembourg. Tuy nhiên, riêng cá nhân Mỹ đóng góp tới 50% lực lượng bộ binh (Nam Triều Tiên phần còn lại), 86% lực lượng hải quân và 93% không quân.[99]

Liên Xô và đồng minh của họ không thừa nhận giải pháp này với lý do là nó bất hợp pháp vì có một thành viên thường trực của hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu. Đối đầu lại điều này, quan điểm đưa ra là một thành viên thường trực của hội đồng phải thật sự phủ quyết để đánh bại giải pháp. Chính phủ Bắc Triều Tiên cũng không đồng ý và lý giải rằng cuộc xung đột này là một cuộc nội chiến và vì vậy không nằm trong tầm giải quyết của Liên Hợp Quốc. Năm 1950, một giải pháp của Liên Xô đưa ra kêu gọi chấm dứt thù địch và rút các lực lượng ngoại quốc đã bị bác bỏ.[100]

Dư luận công chúng Mỹ đồng lòng đứng sau cuộc can thiệp này. Tuy nhiên, sau đó Truman bị tố cáo, chỉ trích nặng nề vì không xin phép tuyên chiến từ Quốc hội trước khi gửi quân sang Triều Tiên. Vì thế, một số người gọi đây là "Cuộc chiến tranh của Truman", và rằng việc Hoa Kỳ tham chiến ở Triều Tiên đã vi phạm tinh thần và nội dung của Hiến pháp Hoa Kỳ.

Mặc dù việc giảm bớt lực lượng Hoa Kỳ và Đồng minh sau Chiến tranh thế giới thứ hai gây ra nhiều vấn đề tiếp vận trầm trọng cho quân đội Mỹ trong vùng nhưng Mỹ vẫn có đủ lực lượng tại Nhật Bản để đối phó với quân đội Bắc Triều Tiên với các trang bị đa số đã lỗi thời của Liên Xô. Các lực lượng này của Mỹ nằm dưới quyền chỉ huy của Thống tướng Douglas MacArthur. Ngoài các đơn vị của Khối thịnh vượng chung, không có quốc gia nào khác cung cấp nguồn nhân lực đáng kể.

Sau khi nghe báo cáo về chiến sự toàn diện nổ ra tại Triều Tiên, Tổng thống Truman ra lệnh cho Tướng MacArthur chuyển đạn dược đến cho quân đội của Nam Triều Tiên trong lúc đó dùng phương tiện hàng không để che chở việc di tản các công dân Hoa Kỳ. Truman không đồng ý tiến hành các cuộc không kích đơn phương của Mỹ chống lại các lực lượng Bắc Triều Tiên theo ý kiến các cố vấn của ông, nhưng ông đã ra lệnh cho Hạm đội Một bảo vệ Đài Loan của Tưởng Giới Thạch, chấm dứt chính sách không can thiệp vào chuyện nội bộ của Trung Hoa vẫn được Mỹ thực hiện trước đó. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc yêu cầu được tham chiến tại Triều Tiên tuy nhiên bị người Mỹ từ chối vì người Mỹ sợ chuyện này chỉ khiến Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có cớ can thiệp vào cuộc chiến.

Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội ngoại quốc là Lực lượng Đặc nhiệm Smith (Task Force Smith) của Hoa Kỳ, một đơn vị của Sư đoàn Bộ binh số 24 Bộ binh của Mỹ đóng ở Nhật Bản. Ngày 5 tháng 7, lực lượng này chiến đấu lần đầu tiên ở Osan và bị bại trận với thương vong cao. Lực lượng chiến thắng của Bắc Triều Tiên tiến quân về phía Nam, và Sư đoàn bộ binh số 24 với sức mạnh còn phân nửa bị buộc phải rút quân về Taejeon là nơi cũng bị rơi vào tay quân Bắc Triều Tiên. Tướng William F. Dean bị bắt làm tù binh.

Vào tháng tám, các lực lượng Nam Triều Tiên và Quân đoàn 8 Hoa Kỳ bị đẩy lui vào một vùng nhỏ trong cạnh Đông Nam của bán đảo Triều Tiên quanh thành phố Pusan. Trong khi quân đội Bắc Triều Tiên tiến công, họ vây bắt và tàn sát những công chức dân sự.[101] Ngày 20 tháng 8, MacArthur gởi một thông điệp cảnh báo Kim Nhật Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động tàn bạo chống quân đội Liên Hợp Quốc.[69]

Vào tháng chín, chỉ có vùng xung quanh thành phố Pusan - chỉ khoảng 5% Bán đảo Triều Tiên vẫn còn nằm trong tay lực lượng đồng minh. Với sự hỗ trợ tiếp vận lớn lao của Mỹ, không quân yểm trợ, và viện quân, các lực lượng của Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên đã giữ vững được phòng tuyến dọc theo sông Nakdong. Hành động bám giữ liều lĩnh này trở thành nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là "Vành đai Pusan". Mặc dù có thêm lực lượng của Liên Hợp Quốc đến tiếp tay, tình thế trở nên nguy kịch, và dường như Bắc Triều Tiên sẽ thành công trong việc thống nhất bán đảo.

Đối diện với các cuộc tấn công dữ dội của Bắc Triều Tiên, phòng tuyến của đồng minh trở thành một trận đánh liều lĩnh mà người Mỹ gọi là trận Vành đai Pusan. Tuy nhiên, Bắc Triều Tiên đã không thành công trong việc chiếm Pusan.

Không lực Hoa Kỳ đến với số lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ một ngày trong những hành động hỗ trợ bộ binh, nhắm vào các lực lượng Bắc Triều Tiên nhưng cũng gây ra sự tàn phá to lớn đến người dân cũng như các thành phố. Các máy bay ném bom chiến thuật (đa số là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật Bản) gây ngừng lưu thông đường sá và đường xe hỏa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu thiết yếu không chỉ cần thiết cho chiến tranh mà còn quan trọng đối với việc di tản của người dân. Xe lửa dùng cho cả quân sự và dân sự đều phải nằm chờ đợi lúc ban ngày bên trong các đường hầm.

Khắp nơi trên Triều Tiên, các máy bay ném bom Hoa Kỳ thi nhau đánh bom các kho tiếp liệu chính và phá hủy các nhà máy lọc dầu và hải cảng nhận hàng nhập cảng cũng như tiếp liệu quân sự để làm cạn kiệt lực lượng Bắc Triều Tiên. Không lực hải quân cũng tấn công các điểm chuyển vận. Lực lượng Bắc Triều Tiên đã bị kéo giãn ra trên toàn bán đảo, và sự tàn phá do bị các máy bay ném bom của Hoa Kỳ gây ra đã ngăn ngừa đồ tiếp liệu cần thiết tới lực lượng Bắc Triều Tiên ở miền nam.

Kim Nhật Thành khiếp sợ khi chứng kiến hiệu quả tàn phá của không quân Mỹ mà quân Bắc Triều Tiên không có cách nào ngăn chặn được. Kim khẩn cầu Stalin hỗ trợ quân sự, nếu không từ Liên Xô thì cũng từ các quốc gia cộng sản khác nhưng không muốn gửi quân và đối mặt với nguy cơ gây chiến cùng Mỹ, Stalin gửi một bức điện cho Mao Trạch Đông: "Theo tình hình hiện nay, nếu Trung Quốc có thể hỗ trợ quân sự cho Bắc Triều Tiên thì 5-6 sư đoàn sẽ là ổn thỏa để tiến tới vĩ tuyến 38. Vai trò của họ sẽ là quân tình nguyện và dĩ nhiên, họ nằm dưới sự chỉ huy của Trung Quốc".[93]

Trong lúc đó, các căn cứ tiếp liệu tại Nhật Bản đưa vũ khí và binh sĩ Liên hiệp quốc ào ạt vào Pusan. Các tiểu đoàn xe tăng Hoa Kỳ từ San Francisco được cấp bách đưa vào Triều Tiên; vào cuối tháng tám, Hoa Kỳ có trên 500 xe tăng loại trung tại vành đai Pusan. Đầu tháng chín, các lực lượng Liên Hợp Quốc và Nam Triều Tiên được củng cố mạnh hơn và đông hơn lực lượng quân sự Bắc Triều Tiên (đồng minh 180.000 quân so với Bắc Triều Tiên 100.000 quân). Vào thời điểm đó, đồng minh bắt đầu một cuộc phản công.[96]

Sau nhiều yêu cầu trợ giúp từ Trung Quốc và Bắc Triều Tiên để chống lại sức mạnh của không quân Mỹ, Stalin buộc phải cử hàng trăm máy bay chiến đấu MiG sang Triều Tiên. Không quân Liên Xô đào tạo các phi công Trung Quốc hoặc dùng phi công của mình mặc quân phục Trung Quốc và nói tiếng Trung để vẫn giữ danh nghĩa rằng Liên Xô không can thiệp và tránh xung đột trực tiếp với Mỹ.

Đối diện với các cuộc tăng viện áp đảo của Liên Hợp Quốc, lực lượng Bắc Triều Tiên tự nhận thấy mình có quân số ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng thiếu hỗ trợ của không quân và hải quân so với Mỹ. Để giảm sức ép đối với Vành đai Pusan, Tướng MacArthur, tổng tư lệnh lực lượng Liên Hợp Quốc tại Triều Tiên, đã ra lệnh cho một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa phía sau phòng tuyến của Bắc Triều Tiên tại Incheon (인천; 仁川, Nhân Xuyên), một thành phố và là hải cảng lớn ven bờ biển Hoàng Hải của Nam Triều Tiên, gần Seoul.

Thủy triều cao và sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm. MacArthur bắt đầu hoạch định chiến dịch này vài ngày sau khi chiến tranh khởi sự nhưng Lầu Năm Góc mạnh mẽ bác bỏ kế hoạch này. Cuối cùng khi được phép, MacArthur tập hợp Quân đoàn X dưới quyền của Tướng Edward Almond gồm có 70.000 quân từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến số 1, Sư đoàn Bộ binh số 7 và tăng phái với 8.600 quân người Triều Tiên và ra lệnh cho họ đổ bộ tại Incheon trong Chiến dịch Chromite. Vào lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các du kích quân Nam Triều Tiên, sự cố tình tạo ra thông tin sai lạc và các cuộc pháo kích kéo dài trước khi đổ bộ, thêm vào đó lực lượng Bắc Triều Tiên có rất ít quân đóng tại Incheon nên lực lượng Mỹ chỉ gặp sự chống trả yếu ớt khi họ đổ bộ lên Incheon.

Cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi Quân đoàn 10 tiến công tràn ngập quân phòng thủ vốn ít hơn và đe dọa bao vây quân đội chính quy của Bắc Triều Tiên. MacArthur nhanh chóng tái chiếm Seoul. Quân đội Bắc Triều Tiên bị cắt đứt tuyến tiếp vận, nên phải nhanh chóng rút lui về phía bắc; khoảng 25.000 đến 30.000 quay trở lại.[102][103]

Sau khi tái chiếm lại Nam Triều Tiên, Lý Thừa Vãn ra lệnh tiến hành thảm sát hàng loạt những người dân bị tình nghi ủng hộ Bắc Triều Tiên, gây ra Thảm sát Bodo League (giết chết khoảng từ 100.000[104][cần số trang] tới 200.000 người), diễn ra suốt mùa hè năm 1950. Đây là một trong những vụ thảm sát lớn nhất châu Á kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Lực lượng Liên Hợp Quốc (gồm chủ yếu là quân Mỹ) đẩy lui quân Bắc Triều Tiên ngược qua vĩ tuyến 38. Mục tiêu cứu chính phủ Nam Triều Tiên của Mỹ đã đạt được nhưng vì bị quyến rũ bởi sự thành công và viễn cảnh thống nhất Triều Tiên dưới tay chính phủ Lý Thừa Vãn nên lực lượng Liên Hợp Quốc tiến quân vào Bắc Triều Tiên. Sự kiện này đánh dấu khoảnh khắc quan trọng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ khi các nhà lãnh đạo của Hoa Kỳ quyết định đi xa hơn là chỉ đơn thuần "ngăn chặn" mối đe dọa thấy rõ của cộng sản. Các vấn đề khác gồm có tác dụng tâm lý về việc tiêu diệt được một quốc gia cộng sản chủ nghĩa và giải thoát các tù nhân chiến tranh.

Các lực lượng Liên Hợp Quốc vượt qua biên giới tiến vào Bắc Triều Tiên đầu tháng 10 năm 1950. Quân đoàn 10 của Mỹ đổ bộ từ biển vào bờ tại Wonsan và Iwon. Hai nơi này đã bị quân đội Nam Triều Tiên tiến công trên bộ chiếm được. Các lực lượng còn lại của Hoa Kỳ sát cánh với quân Nam Triều Tiên tiến quân theo phía bờ tây của Triều Tiên và chiếm được Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10. Đến cuối tháng 10, quân đội Bắc Triều Tiên tan rã nhanh chóng, và quân Liên Hợp Quốc bắt được 135.000 tù binh.

Cuộc tiến công của Liên Hợp Quốc gây lo ngại rất lớn cho Trung Quốc. Họ lo lắng lực lượng Liên Hợp Quốc sẽ không dừng lại ở sông Áp Lục là ranh giới giữa Triều Tiên và Trung Quốc mà sẽ mở rộng chiến tranh vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhiều người ở Tây phương bao gồm Tướng MacArthur nghĩ rằng mở rộng chiến tranh vào Trung Quốc là cần thiết. Tuy nhiên, Truman và những nhà lãnh đạo khác không đồng ý, và MacArthur được lệnh phải cẩn trọng khi tiến tới biên giới Trung Quốc. Dần dần, MacArthur không còn quan tâm đến lệnh của Tổng thống nữa và cho rằng quân đội Bắc Triều Tiên sẽ được tiếp tế qua các căn cứ tại Trung Quốc nên các căn cứ đó phải bị dội bom. Tuy nhiên, trừ một vài dịp hiếm hoi, các máy bay ném bom Liên Hợp Quốc vẫn cách xa tầm bay đến Mãn Châu trong suốt cuộc chiến.

Trung Quốc cảnh cáo các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ qua các nhà ngoại giao trung lập rằng họ sẽ can thiệp để bảo vệ nền an ninh quốc gia. Truman xem các lời cảnh báo này như "một mưu toan táo bạo để hù dọa Liên Hợp Quốc" và không coi trọng nó lắm. Ngày 15 tháng 10 năm 1950, Truman đến Đảo Wake để họp ngắn ngủi với MacArthur. Cục Tình báo Trung ương Mỹ trước đây có cho Truman biết rằng việc Trung Quốc tham chiến là không thể xảy ra. MacArthur suy đoán rằng có ít rủi ro về một cuộc chiến với Trung Quốc. MacArthur cho rằng Trung Quốc đã mất dịp giúp Bắc Triều Tiên. Ông ước tính Trung Quốc có 300.000 quân tại Mãn Châu với khoảng từ 100.000-125.000 quân dọc theo sông Áp Lục; phân nửa quân số đó có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Quốc không có lực lượng không quân, vì thế, "nếu Trung Quốc cố tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một cuộc đại tàn sát".[102][106] MacArthur nhận định rằng Trung Hoa muốn tránh bị thiệt hại nặng nề.

Ngày 8 tháng 10 năm 1950, một ngày sau khi quân đội Mỹ vượt vĩ tuyến 38, Chủ tịch Mao Trạch Đông phát lệnh tập kết Chí nguyện quân Nhân dân Trung Quốc. Bảy mươi phần trăm thành viên của Chí nguyện quân là quân đội hiện dịch của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Mao ra lệnh quân đội di chuyển đến sông Áp Lục, sẵn sàng vượt sông. Mao Trạch Đông tìm sự trợ giúp của Liên Xô và coi sự can thiệp vào Triều Tiên là một hành động tự vệ cần thiết: "Nếu chúng ta để cho Hoa Kỳ chiếm đóng toàn Triều Tiên...chúng ta phải chuẩn bị chờ Hoa Kỳ tuyên chiến với Trung Hoa", Mao nói với Stalin như vậy. Thủ tướng Chu Ân Lai được phái đến Moskva để tăng thêm cường độ cho những lý lẽ qua điện thoại của Mao. Mao trì hoãn trong lúc chờ đợi sự chi viện lớn từ Liên Xô, hủy bỏ cuộc tấn công đã hoạch định từ 13 tháng 10 đến 19 tháng 10. Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Các phi cơ MiG-15 của Liên Xô trong màu sắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một sự thách thức nghiêm trọng đối với các phi công Liên Hợp Quốc. Tại một khu vực có biệt danh là "Hành lang MiG" (MiG Alley - do các lực lượng Liên Hợp Quốc đặt), các phi cơ của Liên Xô có ưu thế hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo (Lockheed F-80 Shooting Stars) cho đến khi các phi cơ F-86 (North American F-86 Sabre) được triển khai. Người Trung Quốc rất giận dữ trước việc tham chiến có giới hạn của Liên Xô vì họ cứ đinh ninh rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ không quân toàn diện. Mỹ biết rõ vai trò của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh khả năng leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Chạng vạng tối ngày 19 tháng 10 năm 1950, trong cơn mưa lạnh, các quân đoàn 40, 39, 42, 38 và ba sư đoàn pháo binh Quân Chí nguyện nhân dân Trung Quốc cùng một lúc lần lượt vượt sông Áp Lục ở ba bến An Lạc, Trường Miến và Tập An bí mật tiến vào Triều Tiên.

Quân Trung Quốc đối mặt với quân đội Hoa Kỳ ngày 25 tháng 10 năm 1950 với 270.000 quân dưới quyền tư lệnh của tướng Bành Đức Hoài khiến cho Liên Hợp Quốc rất ngạc nhiên vì không lường trước được mức độ quân số đông đảo đến như vậy lại đột ngột xuất hiện. Tuy nhiên, sau những vụ đụng độ ban đầu, các lực lượng Trung Quốc rút lui vào vùng núi. Các nhà lãnh đạo Liên Hợp Quốc coi sự rút lui của Trung Quốc như là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai lầm trầm trọng khả năng tác chiến của Trung Quốc. Thế nên các lực lượng Liên hiệp quốc tiếp tục tiến công về sông Áp Lục không đếm xỉa gì đến những lời cảnh cáo của Bắc Kinh.

Tình báo Mỹ, sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã không làm việc hiệu quả tại Bắc Triều Tiên cũng như đã từng không hiệu quả tại Nam Triều Tiên trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan. Để giữ bí mật, quân Trung Quốc hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của Trung Quốc gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ An Tung ở Mãn Châu, phía bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Bắc Triều Tiên trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày. Cuộc hành quân trong bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi người, thú vật và các trang bị được che giấu hay ngụy trang. Trong ban ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị của Trung Quốc bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có máy bay xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn hạ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này.[96]

Từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 5 tháng 11 (1950) là chiến dịch đầu tiên của Trung Quốc. Quân Trung Quốc dùng 2 sư đoàn của quân đoàn 42 tổ chức phòng ngự ở khu vực Hoàng Thảo Lĩnh, Phó Chiến Lĩnh thuộc mặt trận miền đông, lại dùng 3 quân đoàn và một sư đoàn của quân đoàn 42 (sau tăng thêm 2 quân đoàn) phản kích ở mặt trận miền Tây. Chiến dịch này đã đánh lui quân Mỹ đến phía nam sông Thanh Xuyên. Ngày 7 tháng 11, các quân đoàn 20, 26, 27 thuộc Binh đoàn 9 quân Chí nguyện dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh kiêm Chính uỷ Tống Thời Luân tiến vào Triều Tiên. Tới lúc này, binh lực tác chiến của Trung Quốc lên tới 9 quân đoàn gồm 30 sư đoàn, tổng cộng hơn 380.000 quân, chiếm ưu thế hơn so với quân Liên Hợp Quốc gồm 5 quân đoàn, 13 sư đoàn, 3 lữ đoàn, tổng cộng 220.000 quân.

Cuối tháng 11, Trung Quốc đánh vào phía tây, dọc theo sông Chongchon, hoàn toàn áp đảo một số sư đoàn của Nam Triều Tiên và đánh một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của Liên Hợp Quốc. Ở mặt trận phía tây, quân Chí nguyện tiêu diệt sư đoàn 7 quân Nam Triều Tiên, đánh quị sư đoàn 2 quân Mỹ. Ở mặt trận phía đông, đánh quị sư đoàn thủy quân lục chiến 1, sư đoàn bộ binh 2 quân Mỹ. Tình hình đó buộc McAthur phải ra lệnh cho quân Mỹ và quân Nam Triều Tiên rút lui toàn bộ. Tư lệnh tập đoàn quân số 8 quân Mỹ trong khi rút lui đã chết vì tai nạn xe.

Thất bại của Quân đoàn 8 đã tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân đội Mỹ trong lịch sử.[107] Tại miền đông, trong Trận hồ nước Chosin, một đơn vị 30.000 người của Sư đoàn Bộ binh số 7 Mỹ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của Trung Quốc và chẳng bao lâu bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương vong 15.000 người. Tại trận này, Thủy quân lục chiến Mỹ cũng bị đánh bại và bắt buộc rút lui sau khi gây ra những thiệt hại nặng nề cho sáu sư đoàn quân Trung Quốc.[108]

Các chiến thắng của quân đội Trung Quốc cho thấy họ là một đối thủ đáng gờm với quân Mỹ, ngay cả khi quân Trung Quốc yếu thế hơn nhiều về hỏa lực. Quân Trung Quốc không có xe tăng, cũng không có không quân yểm trợ, nhưng họ có các binh sỹ có tinh thần chiến đấu tốt, kỷ luật cao cùng chiến thuật hợp lý. Trong khi các binh sĩ Trung Quốc ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander giải thích trong cuốn "How Wars Are Won" (Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh):

Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Quốc như sau:

Lực lượng Hoa Kỳ tại đông bắc Triều Tiên, từng tiến công chớp nhoáng chỉ một vài tháng trước đây, bị bắt buộc phải rút chạy về miền nam nhanh hết mức có thể để hình thành một vành đai phòng thủ quanh thành phố hải cảng Hungnam, nơi mà sau đó một cuộc di tản lớn được thực hiện cuối tháng 12 năm 1950. Trước nguy cơ đối diện với sự bại trận hoàn toàn và đầu hàng, 193 lượt tàu chở các quân nhân Mỹ và trang thiết bị đã rời bến di tản khỏi Bến cảng Hungnam. Khoảng 105.000 binh sĩ, 98.000 thường dân, 17.500 xe các loại, và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến Pusan trong vòng trật tự. Khi họ đã bỏ đi, các lực lượng Mỹ đã đánh sập phần lớn thành phố để không cho quân đội Trung Quốc sử dụng, khiến nhiều người dân Triều Tiên không có nơi trú thân trong mùa đông.[102][109]

Đối với Trung Quốc, Kim Nhật Thành là một đối tác khó tính. Đầu tiên, ông từ chối hợp nhất các lực lượng của mình dưới sự chỉ huy của Bành Đức Hoài cho dù lính Trung Quốc chiếm đa số quân đội. Kim chỉ đồng ý sau khi nhận được một chỉ thị từ Stalin. Kim Nhật Thành cũng tranh cãi với Bành Đức Hoài vào đầu năm 1951 xung quanh việc liệu có nên vượt vĩ tuyến 38 vì Kim Nhật Thành ra lệnh tiến quân, song Bành Đức Hoài từ chối và vấn đề chỉ được dàn xếp sau khi có một chỉ thị từ Stalin ủng hộ Bành Đức Hoài.[93]

Nhà sử học Trung Quốc Trần Lâm cho rằng trong đội quân mà Trung Quốc gửi ra chiến trường có cả những binh sĩ từ quân đội Quốc dân đảng đã đầu hàng, tuy tỷ lệ tham gia không lớn: "Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thực tế không muốn thu nhận họ. Động cơ của Mao Trạch Đông khi tham chiến là để thu hút sự chú ý và công nhận Trung Quốc như một cường quốc, đồng thời đoàn kết người dân trong một cuộc chiến yêu nước".

Tháng giêng năm 1951, các lực lượng Trung Quốc và Bắc Triều Tiên lại đánh mạnh trong giai đoạn tiến công thứ ba (được biết với tên gọi Cuộc tiến công mùa đông của Trung Quốc). Quân Trung Quốc lặp lại các chiến thuật trước đây của họ là tấn công chủ yếu là vào đêm với cách đánh thăm dò từ các vị trí xa mặt trận theo sau là một đợt xung phong với số lượng quân áp đảo, và dùng kèn, cồng chiêng để liên lạc và đánh lạc hướng quân địch. Các lực lượng Liên Hợp Quốc không có phương cách hữu hiệu để chống lại chiến thuật này, và sức kháng cự của họ sa sút nên họ rút lui nhanh về miền nam. Seoul bị bỏ lại và bị các lực lượng Trung Quốc và Bắc Triều Tiên chiếm được vào ngày 4 tháng 1 năm 1951.

Khó khăn thêm gia tăng cho Quân đoàn 8 khi Tướng Walker bị giết chết trong một vụ tai nạn. Trung tướng Matthew Ridgway, một cựu chiến binh nhảy dù trong Chiến tranh thế giới thứ hai lên thay và nhanh chóng nâng sĩ khí và tinh thần chiến đấu của Quân đoàn 8 vốn đã quá kiệt quệ và sa sút trong cuộc rút lui. Tuy nhiên tình thế quá khắc nghiệt đến nỗi Tướng Douglas MacArthur thậm chí nói đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Trung Quốc, gây nhiều lo ngại cho các đồng minh của Mỹ.

Các lực lượng Liên Hợp Quốc tiếp tục rút lui cho đến khi họ tới phòng tuyến chạy dài từ phía nam Suwon ở miền tây, Wonju ở giữa, và phía bắc Samchok ở miền đông là nơi mặt trận được ổn định. Quân Chí nguyện của Trung Quốc đã bỏ xa đường tiếp vận của họ nên gặp khó khăn khi tiến ra xa khỏi Seoul vì họ đang ở cuối đường vận chuyển tiếp liệu. Do thiếu phương tiện cơ giới, lại bị không quân Hoa Kỳ đe dọa nên tất cả lương thực và đạn dược của quân Trung Quốc phải được vận chuyển vào ban đêm bằng chân hoặc xe đạp từ sông Áp Lục, cách cận chuyển này không thể đủ đáp ứng nhu cầu của mặt trận ở xa hàng trăm km. Tướng Bành Đức Hoài ra lệnh cho các lực lượng của ông ngừng tiến công và chuyển sang phòng ngự.

Cuối tháng giêng, sau khi nhận thấy các phòng tuyến phía trước lực lượng của ông bị bỏ hoang, Tướng Ridgway ra lệnh tiến hành thám thính mà sau đó biến thành một cuộc tiến công toàn diện có tên gọi là "Operation Roundup" (Chiến dịch Bố ráp). Chiến dịch được hoạch định tiến hành từng bước một, tận dụng ưu thế hỏa lực trên mặt đất và trên không của Liên Hợp Quốc. Vào lúc kết thúc Chiến dịch Bố ráp vào đầu tháng hai, các lực lượng Liên Hợp Quốc đã tiến tới sông Hán và tái chiếm Wonju.

Trung Quốc phản công vào giữa tháng hai bằng Cuộc tiến công giai đoạn bốn từ Hoengsong ở miền trung chống các vị trí của Quân đoàn IX Mỹ quanh Chipyong-ni. Các đơn vị của Sư đoàn Bộ binh số 2, gồm có Tiểu đoàn Pháp tại Triều Tiên đã đánh trả một cuộc bao vây ngắn ngủi nhưng dữ dội và cuối cùng phá vỡ được cuộc tiến công này. Trong trận đánh này, Liên Hợp Quốc đã học được cách đối phó với các chiến thuật tấn công của Trung Quốc và có thể giữ vững trận địa của họ.

Chiến dịch Bố ráp được theo sau trong hai tuần cuối của tháng 2 năm 1951 bằng Chiến dịch Sát thủ (Operation Killer) do Quân đoàn 8 được tái sinh của Mỹ đảm nhiệm. Đây là một cuộc tấn công toàn diện ngang qua mặt trận, lần nữa được hoạch định tăng cường tối đa hỏa lực với mục đích gây thiệt hại nặng nề cho các quân đoàn Bắc Triều Tiên và Trung Quốc. Cuối Chiến dịch Sát thủ, Quân đoàn I đã tái chiếm lại được tất cả các lãnh thổ phía nam sông Hán, trong khi Quân đoàn IX tái chiếm Hoengsong.

Ngày 7 tháng 3 năm 1951, Quân đoàn 8 lại thọc mạnh về phía trước trong "Chiến dịch 'Ripper, vào ngày 14 tháng 3 họ đã đẩy lui các lực lượng Trung Quốc và Bắc Triều Tiên ra khỏi Seoul, đây là lần thứ tư trong một năm thành phố này đổi chủ. Seoul ở trong cảnh hoang tàn đổ nát; dân số của thành phố trước chiến tranh là 1,5 triệu người đã giảm xuống còn 200.000 người và thiếu thực phẩm trầm trọng".[103]

Douglas MacArthur bị tước quyền tự lệnh bởi Tổng thống Harry Truman ngày 11 tháng 4 năm 1951 vì bất tuân lệnh Tổng thống, gây ra một cơn bão lửa phản đối ở Hoa Kỳ. Tư lệnh tối cao mới là Tướng Ridgway tiến hành củng cố các lực lượng Liên Hợp Quốc để chuẩn bị cho một loạt các cuộc phản công hiệu quả. Vị trí Tư lệnh Quân đoàn 8 được chuyển cho Tướng James Van Fleet.

Một loạt các cuộc tấn công sau đó từ từ đẩy lui quân Trung Quốc và Bắc Triều Tiên như các chiến dịch Courageous và Tomahawk, một cuộc công kích kết hợp giữa bộ binh và không quân giam lực lượng cộng sản giữa Kaesong và Seoul. Các lực lượng Liên Hợp Quốc tiếp tục tiến công cho đến khi họ tới được phòng tuyến Kansas, cách vĩ tuyến 38 một khoảng mấy dặm về phía bắc.

Tuy nhiên, tháng 4 năm 1951, Trung Quốc mở đợt tiến công giai đoạn năm. Đây là một nỗ lực chính có sự tham dự của ba quân đoàn (lên đến 700.000 quân). Quả đấm chính rơi trúng Quân đoàn I của Mỹ nhưng sự chống trả quyết liệt trong các trận đánh tại sông Imjin và Kapyong đã chặn bước tiến của quân đội Trung Quốc ở phòng tuyến phía bắc Seoul.

Một cuộc tiến công khác của Trung Quốc sau đó ở miền trung chống lại Quân đoàn X và lực lượng Nam Triều Tiên vào ngày 15 tháng 5 cũng đạt được những thành công ban đầu, nhưng vào 20 tháng 5 cuộc tấn công dừng lại. Quân đoàn 8 phản công và đến cuối tháng 5 thì chiếm lại phòng tuyến Kansas.

Quyết định của Liên Hợp Quốc dừng lại ở phòng tuyến Kansas, nằm ở phía bắc Vĩ tuyến 38, và không tiếp tục các hành động tiến công vào Bắc Triều Tiên đã đẩy cuộc chiến vào giai đoạn bế tắc, là điểm điển hình cho phần còn lại của cuộc xung đột.

Phần còn lại của cuộc chiến bao gồm chút ít sự thay đổi về lãnh thổ, các cuộc oanh tạc tầm mức rộng lớn của Không lực Mỹ vào các thành phố ở Bắc Triều Tiên, và các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài bắt đầu từ 10 tháng 7 năm 1951 tại Kaesong. Thậm chí trong suốt các cuộc thương thuyết hòa bình, chiến sự vẫn tiếp tục. Đối với các lực lượng quân sự Nam Triều Tiên và đồng minh, mục tiêu của họ là phải tái chiếm hoàn toàn miền Nam trước khi một thỏa ước đạt được để tránh mất bất cứ lãnh thổ nào. Trung Quốc và Bắc Triều Tiên đã cố mở các chiến dịch tương tự, và sau đó còn tiến hành các chiến dịch nhằm thử quyết tâm của Liên Hợp Quốc có tiếp tục cuộc xung đột. Các cuộc đụng độ quân sự chính yếu trong giai đoạn này là những hành động quanh lòng chảo phía đông như Bloody Ridge và Heartbreak Ridge năm 1951, các trận đánh như Trận Old Baldy ở giữa và Trận Hook ở phía tây trong suốt năm 1952-53, Trận Đồi Eerie năm 1952, và Trận Đồi Pork Chop năm 1953.

Các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài trong hai năm, đầu tiên là ở Kaesong và sau đó là ở Bàn Môn Điếm. Một vấn đế chính yếu trong các cuộc thương thuyết là việc trao trả tù binh chiến tranh. Phía miền Bắc đồng ý trao trả theo tự nguyện của tù binh nhưng với điều kiện là đa số tù binh sẽ trở về Trung Quốc hoặc Bắc Triều. Nhưng vì có quá nhiều tù binh từ chối được trao trả về Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, chiến tranh tiếp tục cho đến khi phía Trung Quốc và Bắc Triều Tiên từ bỏ điều kiện này.

Tháng 10 năm 1951, các lực lượng Mỹ tiến hành Chiến dịch Cảng Hudson với ý định thiết lập khả năng sử dụng vũ khí nguyên tử. Một số phi cơ B-29 thực hiện các phi vụ tập ném bom giả từ Okinawa đến Bắc Triều Tiên mang theo các quả bom nguyên tử "hình nộm" hoặc các loại bom thông thường hạng nặng. Chiến dịch được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota tại Nhật Bản. Cuộc tập trận này có ý định thử chức năng thực sự của tất cả các hoạt động sẽ cần dùng trong một tấn công bằng vũ khí nguyên tử, bao gồm việc lắp ráp vũ khí và thử nghiệm, hướng dẫn, kiểm soát mặt đất về mục tiêu ném bom. Kết quả cho thấy bom nguyên tử không hiệu quả như là tiên đoán bởi vì việc phát hiện số đông lực lượng địch kịp thời thì quả là hiếm hoi.[110][111]

Vào ngày 29 tháng 11 năm 1952, tổng thống mới đắc cử là Dwight D. Eisenhower đã thực hiện lời hứa lúc tranh cử là đến Triều Tiên để tìm kiếm giải pháp để kết thúc cuộc xung đột. Với việc Liên Hợp Quốc chấp thuận lời đề nghị ngừng bắn của Ấn Độ, lệnh ngừng bắn được thiết lập vào ngày 27 tháng 7 năm 1953 vào thời điểm tuyến đầu mặt trận quay trở lại quanh vĩ tuyến 38, và vì vậy một vùng phi quân sự được thiết lập quanh nó, hiện tại được quân đội Bắc Triều Tiên phòng thủ một phía và phía bên kia là quân đội Nam Triều Tiên và Mỹ. Kaesong, nơi diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, vốn là cố đô của Triều Tiên, là phần đất của miền Nam trước khi các cuộc xung đột bùng nổ nhưng bây giờ là một thành phố đặc khu của miền Bắc. Cho đến bây giờ cũng không có một hiệp định hòa bình nào được ký kết, theo kỹ thuật, Nam và Bắc Triều Tiên vẫn đang ở trong tình trạng chiến tranh. Mặc dù Bắc Triều Tiên và Mỹ đã ký kết Hiệp định Đình chiến nhưng Lý Thừa Vãn từ chối ký kết vào văn kiện này.[112]

Các con số của phương Tây về thương vong của Trung Quốc và Bắc Triều Tiên chủ yếu được dựa vào những báo cáo từ mặt trận về ước tính thương vong, việc hỏi cung các tù nhân và các tài liệu tịch thu được. Ước tính của Trung Quốc về số thương vong của Liên Hợp Quốc cho rằng "Tuyên bố chung sau chiến tranh của Quân Chí nguyện Trung Quốc và Quân đội Nhân dân Triều Tiên công bố rằng họ đã "loại trừ" 1,09 triệu quân địch, bao gồm 390.000 quân của Mỹ, 660.000 quân Nam Triều Tiên, và 29.000 quân các nước khác. Con số "loại trừ" mập mờ không nêu chi tiết có bao nhiêu người chết, bị thương và bị bắt.

Nói về thương vong của chính Trung Quốc, cũng là nguồn đó nói rằng "Trong suốt thời gian chiến tranh, 70 phần trăm các lực lượng của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã được khai triển đến Triều Tiên như Quân Chí nguyện Nhân dân Trung Quốc (tổng lượt lên đến 2,97 triệu) cùng với hơn 600.000 dân công. Quân Chí nguyện bị thiệt hại tổng cộng 148.000 người chết, trong đó có 114.000 tử trận, 34.000 chết do tai nạn, bệnh tật hoặc chết rét; và số người bị thương là 380.000 người. Cũng có 7.600 người mất tích. Có 7.110 tù binh Trung Quốc được trao trả sau chiến tranh." Cũng nguồn tương tự kết luận con số thương vong của Bắc Triều Tiên, "Quân đội Nhân dân Triều Tiên có 290.000 thương vong và 90.000 bị bắt. Có một con số tổn thất dân sự rất lớn tại miền bắc Triều Tiên nhưng không có con số chính xác nào được xác nhận".[113]

Khi các binh sĩ Bắc Triều Tiên tràn qua vĩ tuyến 38 vào Nam Triều Tiên, xe tăng Liên Xô T-34/85 gần như không có đối thủ khi chống lại tại các phòng tuyến của Nam Triều Tiên. Trong thời gian này, quân đội Nam Triều Tiên không có xe tăng, chỉ có một ít pháo chống tăng và bazooka. Thật sự thì gần như toàn thể binh sĩ Nam Triều Tiên không quen với việc đối diện với xe tăng và cách chống lại chúng.

Quân đội Nam Triều Tiên có súng chống tăng, nhưng những súng này là loại M9 bazooka 60 mm lỗi thời từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Những vũ khí này đã lỗi thời và không thể công phá phần bọc thép phía trước của T-34/T-85. Trước khi Hoa Kỳ đưa loại súng M20 bazooka 89 mm (3.5 inch) hạng nặng vào, quân đội Nam Triều Tiên không thể chống lại xe tăng Bắc Triều Tiên một cách hữu hiệu.

Lúc bắt đầu chiến tranh, một số lực lượng Nam Triều Tiên được chia thành những toán cảm tử quân và áp sát các xe tăng T-34 để quăng chất nổ vào trong ổ đại bác hoặc dưới bụng xe tăng nơi mà vỏ bọc thép là mỏng nhất. Những chiến thuật này ít hiệu quả (phần lớn bộ binh bị hạ trước khi kịp tới gần xe) và không đủ để giúp chặn sự tiến công bằng xe tăng của Bắc Triều Tiên. Nhờ các ưu thế của lực lượng thiết giáp, quân đội Bắc Triều Tiên đã đạt được nhiều chiến thắng lớn trong giai đoạn đầu chiến tranh.

Các xe tăng đầu tiên của Mỹ đến Triều Tiên và tham chiến là các xe tăng hạng nhẹ M24 Chaffee được để lại Nhật Bản cho nhiệm vụ chiếm đóng sau Chiến tranh thế giới thứ hai (các xe tăng hạng nặng có thể làm hỏng đường sá Nhật Bản). Các xe tăng hạng nhẹ này có rất ít cơ hội chống lại xe tăng T-34/85 hạng trung vượt trội hơn của các lực lượng Bắc Triều Tiên. Các chuyến tàu vận chuyển sau đó gồm các xe tăng hạng nặng của Mỹ như M4 Sherman và M26 Pershing, xe tăng Centurion của Anh Quốc cũng như các khu trục cơ tấn công mặt đất của phe Đồng minh và Mỹ đã có thể vô hiệu hóa lợi thế về xe tăng của Bắc Triều Tiên.

Tuy nhiên, khác với việc sử dụng cơ giới nhiều trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có rất ít các trận đấu xe tăng đã xảy ra trong suốt cuộc chiến Triều Tiên. Địa hình rừng núi dày đặc của đất nước khiến cho xe tăng hoạt động không hữu hiệu, nhưng nó có thể được dùng như một loại vũ khí yểm trợ từ xa, chuyên dùng pháo để bắn vào kẻ địch phòng thủ trên một ngọn đồi hay vách đá.

Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến tranh chính cuối cùng mà các loại khu trục cơ cánh quạt như F-51 Mustang, F4U Corsair và loại phi cơ sử dụng trên hàng không mẫu hạm là Supermarine Seafire được sử dụng, và loại khu trục cơ tuốc bin phản lực F-80 và F9F Panther xuất hiện làm chủ bầu trời, áp đảo các phi cơ cánh quạt của Bắc Hàn như Yakovlev Yak-9 và Lavochkin La-9.

Từ năm 1950, Bắc Hàn bắt đầu bay các loại phản lực cơ tiêm kích MiG-15 của Liên Xô chế tạo, một số phi cơ này được các phi công có kinh nghiệm của Không quân Liên Xô đảm nhận. Các lực lượng đồng minh Liên hiệp quốc với lý do chính đáng tham dự cuộc chiến rất lo ngại đương đầu một cuộc chiến mở rộng với Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trước tiên, các khu trục cơ Liên hiệp quốc trong đó bao gồm các phi cơ Gloster Meteor của Không quân Hoàng gia Úc có một số thành công, nhưng các phi cơ MiG với chất lượng vượt trội hơn đã giữ thế thượng phong đối với các phản lực cơ thế hệ đầu mà Liên hiệp quốc sử dụng vào đầu cuộc chiến.[114]

Tháng 12 năm 1950, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu sử dụng phi cơ F-86 Sabre. Các phi cơ MiG có thể bay cao hơn, 50.000 ft so với 42.000 ft (12.800 mét) của phi cơ đồng minh, cho thấy lợi thế rõ ràng lúc khởi đầu của không chiến của MiG. Trong lúc bay đường trường thì tốc độ tối đa của chúng bằng nhau - khoảng 660 dặm Anh một giờ (1.060 km/giờ). Phi cơ MiG có thể vượt lên cao tốt hơn; phi cơ Sabre có thao tác bay tốt hơn và có thể chúi xuống dưới tốt hơn. Về mặt vũ khí, phi cơ MiG mang hai khẩu pháo 23 mm và một đại bác 37 mm, so với phi cơ Sabre có sáu khẩu súng máy nòng cỡ 0,5 inch (12,7 mm). Các khẩu súng máy nòng cỡ 0,5 inch của Mỹ có tốc độ bắn nhanh hơn, trong khi các khẩu pháo của MiG lại có sức phá hủy lớn hơn. Bảo trì là một vấn đề đối với phi cơ Sabre, và phần lớn phi cơ của Liên hiệp quốc đã bị giữ dưới mặt đất để sửa chữa trong suốt cuộc chiến.

Thậm chí sau khi Không quân Hoa Kỳ đưa vào sử dụng phi cơ tiên tiến hơn là F-86, các phi công của Liên hiệp quốc thường vật lộn vất vả chống lại các phản lực cơ do các phi công thiện chiến của Liên Xô cầm lái. Dần dần sau đó Liên hiệp quốc giành được lợi thế về số lượng phi cơ, và sự năng nổ tấn công của họ đã cho họ một ưu thế trên không kéo dài cho đến hết chiến tranh - một nhân tố quyết định trong việc giúp Liên hiệp quốc tiến quân vào miền bắc, và sau đó chống trả cuộc xâm lăng Nam Triều Tiên của Trung Hoa. Người Trung Hoa cũng có sức mạnh của phản lực cơ, nhưng các lực lượng Hoa Kỳ đã huấn luyện các phi công của họ trội hơn. Với việc sử dụng các phi cơ F-86F vào cuối năm 1952, các phi cơ của Liên Xô và Hoa Kỳ coi như có các đặc điểm thao tác tương tự.

Trong số các nhân tố khác giúp xoay chuyển cán cân về phía các phản lực cơ Liên hiệp quốc là chất lượng ống ngắm radar tốt hơn của các phản lực cơ F-86 (dẫn đến việc gắn các hệ thống cảnh báo radar lần đầu tiên trên các máy bay tiêm kích MiG), các mặt số dễ nhìn hơn trong phòng lái, hệ thống điều khiển và giữ thăng bằng lúc bay nhanh và bay cao tốt hơn, và sự đưa vào sử dụng bộ đồ bay chống gia tốc. Các phi công F-86 của Hoa Kỳ cho là họ đã bắn rơi 792 phi cơ MiG-15 và 108 phi cơ khác trong khi chỉ mất 78 phi cơ Sabres, một tỉ lệ vượt xa 10:1. Một số nghiên cứu sau chiến tranh chỉ có thể xác nhận 379 lần chiến thắng, mặc dù không quân Hoa Kỳ tiếp tục duy trì con số chính thức này và việc tranh luận không thể nào hòa giải được. Vừa qua, các tài liệu Liên Xô thời Stalin được tiết lộ cho là chỉ có 345 MiG-15 của Liên Xô bị mất trong suốt chiến tranh Triều Tiên.

Liên Xô tuyên bố họ đã bắn hạ 1.300 máy bay Liên quân và 335 MiG bị mất vào thời gian đó. Con số mất mát chính thức của Trung Hoa là 231 phi cơ bị bắn rơi trong các cuộc chiến đấu không đối không (đa số là MiG-15) và 168 mất mát khác. Con số mất mát của không quân Bắc Triều Tiên không được tiết lộ. Ước tính là họ mất khoảng 200 phi cơ trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, và thêm 70 phi cơ sau khi Trung Hoa can thiệp. Liên Xô công bố bắn hạ 650 máy bay F-86, và Trung Hoa tuyên bố là hạ thêm 211 phi cơ F-86 nữa trong không chiến - có lẽ đây là sự thổi phồng. Theo một công bố của Hoa Kỳ vừa qua, con số phi cơ F-86 từng có mặt tại Bán đảo Triều Tiên suốt cuộc chiến tổng cộng chỉ có 674 và tổng số phi cơ F-86 mất vì nhiều lý do là khoảng 230 chiếc.[115]

So sánh trực tiếp các mất mát của phi cơ Sabre và MiG có lẽ là không hợp lý, vì các mục tiêu chính yếu của các phi cơ MiG là oanh tạc cơ hạng nặng B-29, trong khi mục tiêu chính yếu của các phi cơ Sabre là MiG-15 (có nghĩa là khi không chiến, phi công MiG-15 thường sẽ nhắm vào những chiếc B-29 chứ không chủ động giao chiến với F-86).

Vào đầu năm 1951, các chiến tuyến được củng cố và không thay đổi nhiều trong suốt phần còn lại của cuộc chiến. Qua mùa hè và đầu mùa thu năm 1951, các phi cơ Sabre vượt trội về số lượng (ít nhất là 44 chiếc tại một địa điểm) của Không đoàn tiêm kích đánh chặn số 4 (4th Fighter Interceptor Wing) tiếp tục tìm mục tiêu tại Hàng lang MiG gần sông Áp Lục chống lại một vùng không phận địch có đến 500 phi cơ. Jabara, Becker, và Gibson trở thành những phi công Sabre ưu tú. Theo sau thông điệp nổi tiếng của Đại tá Harrison Thyng gửi về Lầu Năm Góc, Không đoàn tiêm kích đánh chặn số 51 đến tiếp viện Không đoàn số 4 đang bị bao vây vào tháng 12 năm 1951.[116] Trong khoảng thời gian một năm rưỡi tiếp theo, cả hai không đoàn tiếp tục các trận không chiến tương tự tại vùng Hành lang MiG.

Vào ngày 5 tháng 11 năm 1950, Tướng Stratemeyer đã đưa ra mệnh lệnh: "Máy bay dưới sự kiểm soát của nhóm Không lực số 5 sẽ phá hủy tất cả các mục tiêu bao gồm tất cả các tòa nhà có khả năng trú ẩn". Cùng ngày, 22 chiếc B-29 tấn công Kanggye, phá hủy 75% thành phố. Sau khi MacArthur bị cách chức Tư lệnh Tối cao ở Triều Tiên vào tháng 4 năm 1951, những người kế nhiệm ông vẫn tiếp tục chính sách này và cuối cùng đã mở rộng nó cho toàn bộ Bắc Triều Tiên. Hoa Kỳ đã ném tổng cộng 635.000 tấn bom, trong đó có 32.557 tấn napalm tại Triều Tiên, nhiều hơn số bom dùng trong toàn bộ mặt trận Thái Bình Dương hồi Chiến tranh thế giới thứ hai.[117][118]

Hầu như mọi tòa nhà lớn ở Bắc Triều Tiên đều bị phá hủy. Đại tá Mỹ William F. Dean, báo cáo rằng phần lớn các thành phố và làng quê Bắc Triều Tiên chỉ còn là đất đá vôi hoặc hoang mạc.[121][122] Ngày 28 tháng 11 năm 1951, Bộ Tư lệnh không quân ném bom báo cáo về kết quả của chiến dịch ném bom của Mỹ: 95% của Manpojin, cùng với 90% của Hoeryong, Namsi và Koindong, 85% của Chosan, 75% của Sakchu và Huichon và 20% của Uiju đã bị phá hủy. Theo đánh giá thiệt hại từ phía Mỹ, "18 trong số 22 thành phố lớn ở Bắc Triều Tiên ít nhất đã bị phá hủy một nửa".[123]

Ngày 5 tháng 4 năm 1950, Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ (JCS) ra các chỉ thị dội bom trả đũa vào các căn cứ quân sự của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bằng vũ khí nguyên tử nếu như bất cứ tập đoàn quân nào của Trung Hoa vượt biên giới vào Triều Tiên hoặc nếu các oanh tạc cơ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay của Quân đội Nhân dân Triều Tiên mở các cuộc không kích Triều Tiên từ các căn cứ đó. Tổng thống Hoa Kỳ ra lệnh chuyển 9 quả bom hạt nhân Mark 4 "cho liên đoàn oanh tạc cơ số 9 của Không quân Hoa Kỳ, đây là đơn vị được giao phó mang loại vũ khí này... [và] ký lệnh sử dụng chúng chống lại các mục tiêu Triều Tiên và Trung Quốc". Tuy nhiên ông chưa bao giờ truyền lệnh sử dụng chúng.[124]

Trong cuốn The Origins of the Korean War (1981, 1990), sử gia Hoa Kỳ Bruce Cumings cho biết rằng trong một cuộc họp báo ngày 30 tháng 11 năm 1950, những lời ám chỉ tấn công Quân đội Nhân dân Triều Tiên bằng vũ khí hạt nhân của Tổng thống Truman "là lời đe dọa dựa trên kế hoạch bất ngờ sử dụng bom hạt nhân, chớ không phải lỡ lời như nhiều người lầm tưởng như vậy". Ngày 30 tháng 11 năm 1950, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược của Không quân Hoa Kỳ được lệnh "gia tăng khả năng của mình, và sự gia tăng này gồm có khả năng nguyên tử".[125]

Đại sứ Ấn Độ, Kavalam Panikkar, cho biết "Truman đã thông báo rằng ông đang nghĩ đến việc sử dụng bom nguyên tử tại Triều Tiên. Nhưng người Trung Hoa dường như hoàn toàn chẳng hề lay động bởi mối đe dọa này... Họ gia tăng cường độ tuyên truyền chống sự xâm lấn của người Mỹ. Chiến dịch 'Kháng Mỹ viện Triều' trở thành khẩu hiệu thúc đẩy tăng gia sản xuất, đoàn kết quốc gia hơn, và kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các hoạt động chống phá quốc gia. Có người còn nghĩ rằng lời đe dọa của Truman rất là hữu ích đối với các nhà lãnh đạo Cách mạng Trung Hoa, giúp cho họ giữ vững nhịp điệu hoạt động của họ".[102][126][127]

Tổng thống Truman lưu ý rằng chính phủ của ông tích cực xem xét đến việc sử dụng bom nguyên tử để kết thúc chiến tranh tại Triều Tiên nhưng ông cũng nói rằng chỉ có ông - với tư cách là Tổng thống Hoa Kỳ - mới có quyền ra lệnh sử dụng bom nguyên tử, và rằng ông đã chưa cho phép. Vấn đề chiến tranh nguyên tử là quyết định riêng của Hoa Kỳ, không phải là quyết định chung của Liên Hợp Quốc. Ngày 4 tháng 12 năm 1950, Truman họp với Thủ tướng Anh và phát ngôn viên Khối Thịnh vượng chung Anh Clement Attlee, Thủ tướng Pháp René Pleven, và Ngoại trưởng Robert Schuman để thảo luận những mối quan tâm của họ về chiến tranh nguyên tử và việc khả dĩ mở rộng nó trên lục địa. Hoa Kỳ kiềm chế phát động cuộc chiến tranh nguyên tử không phải vì "Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không muốn leo thang" Chiến tranh Triều Tiên mà vì các đồng minh Liên Hợp Quốc - đáng nói là Vương quốc Anh, Khối thịnh vượng chung Anh, và Pháp - quan tâm về sự thiếu cân bằng địa chính trị khiến cho khối NATO khó phòng vệ trong lúc Hoa Kỳ đánh nhau với Trung Quốc. Trung Quốc khi đó có thể thuyết phục Liên Xô tiến công đánh chiếm Tây Âu.[102][128]

Ngày 6 tháng 12 năm 1950, sau khi Trung Quốc can thiệp và đẩy lui các lục quân thuộc Bộ tư lệnh Liên Hợp Quốc khỏi phía bắc Bắc Triều Tiên, Đại tướng J. Lawton Collins (Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ), Đại tướng MacArthur, Đô đốc C. Turner Joy, Đại tướng George E. Stratemeyer, và các sĩ quan tham mưu là Thiếu tướng Doyle Hickey, Thiếu tướng Charles A. Willoughby, và Thiếu tướng Edwin K. Wright họp tại Tokyo để thảo chiến lược đối đầu cuộc can thiệp của Trung Quốc; họ xét đến ba kịch bản tiềm năng về chiến tranh nguyên tử bao gồm những tuần và tháng kế tiếp của chiến tranh.[102]

Năm 1951, Hoa Kỳ leo thang gần sát đến chiến tranh nguyên tử tại Triều Tiên. Vì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã triển khai thêm các tập đoàn quân mới đến biên giới Trung-Triều nên các quả bom nguyên tử được lắp ráp sẵn sàng cho Chiến tranh Triều Tiên, "chỉ còn thiếu có lõi nguyên tử thiết yếu" tại Căn cứ Không quân Kadena, Okinawa. Tháng 10 năm 1951, Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Hudson Harbor để thử khả năng của vũ khi hạt nhận. Các oanh tạc cơ B-29 của Không quân Hoa Kỳ thực hiện các vụ thực tập ném bom riêng lẻ xuất phát từ Okinawa đến Bắc Hàn (sử dụng các quả bom thông thường và hạt nhân giả), được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota nằm ở giữa phía đông Nhật Bản. Chiến dịch Hudson Harbor đã thử nghiệm về "chức năng thật sự của tất cả các hoạt động mà một cuộc tấn công nguyên tử cần có trong đó gồm có việc lắp ráp và thử nghiệm, dẫn dắt, kiểm soát mục tiêu không kích từ mặt đất". Dữ liệu về cuộc thử nghiệm không kích cho thấy rằng về chiến thuật bom nguyên tử không có hiệu quả chống lại bộ binh địch vì "việc phát hiện đúng lúc quân số địch đông đảo thì rất hiếm có".[129][130][131][132][133]

Khi phần lớn lãnh thổ của Nam Triều Tiên nằm dưới quyền kiểm soát của Bắc Triều Tiên, việc tàn sát chính trị được báo cáo là hàng chục ngàn người đã xảy ra tại các thành phố và làng mạc. Bắc Triều Tiên xử bắn một cách có hệ thống các quan chức của chính phủ Nam Triều Tiên và những ai thù địch đối phía họ, và các vụ tử hình như thế này gia tăng cường độ khi quân Bắc Triều Tiên rút lui khỏi miền Nam.[101]

Về phía mình, các lực lượng bán quân sự và cảnh sát, quân đội Nam Triều Tiên, thường có sự chứng kiến của giới quân sự Hoa Kỳ và những người không bị xét xử, đã hành quyết hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người có cảm tình với Bắc Triều Tiên trong những sự kiện như vụ tàn sát tù nhân chính trị của Nhà tù Daejeon và cuộc đàn áp đẫm máu trong vụ Thảm sát Jeju.[77]

Ngay trong ngày nổ ra chiến tranh, 28/6/1950, tổng thống Lý Thừa Vãn của Nam Triều Tiên ra lệnh tử hình toàn bộ tù nhân chính trị, bao gồm cả những người bất đồng chính kiến với Lý Thừa Vãn. Họ bị gom hết vào tội danh "ủng hộ Cộng sản" (dù thực tế phần lớn số này không phải là đảng viên Cộng sản mà chỉ tỏ ra chống đối chế độ Lý Thừa Vãn). Đầu tiên là tại trại tù ở đảo Jeju cực nam Hàn Quốc, nơi các tù chính trị phạm được chia làm bốn loại là A, B, C, D, tù chính trị phạm thuộc nhóm C, D bị xử bắn lập tức theo lệnh "Hành hình toàn bộ các tù nhân thuộc nhóm C,D bằng cách xử bắn không muộn hơn ngày 6 tháng 9 (năm 1950)" của Lý Thừa Vãn. Trên quy mô toàn quốc, tất cả tù chính trị, nghi can có liên hệ với Đảng Lao động Triều Tiên trên toàn quốc, đặc biệt tại trại cải tạo Bodo League (보도연맹 사건), bị tử hình lập tức bằng mọi cách mà không có bất kì phiên tòa, phiên xét xử nào.Tù nhân bị xử bắn tập thể, hầu hết bị tống xuống hố chôn tập thể, một số bị dùng báng súng đập chết hoặc bị quăng xuống biển. Nhiều đối thủ chính trị, gia đình các tù Cộng sản, chính trị phạm bao gồm cả trẻ em cũng bị đưa vào danh sách tử hình, bản án được các binh sĩ Hàn Quốc thực thi triệt để. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là 100.000 người đã bị Nam Triều Tiên hành quyết, và xác chết của những người này bị quăng vào các hố chôn tập thể.[134]

Gần đây, Ủy ban Hòa giải và Tìm sự thật của Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7.800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp đất nước nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước và trong suốt cuộc chiến. Theo nhà lịch sử Kim Dong-choon, những vụ tàn sát tập thể này là "chương tàn bạo và kinh hoàng nhất cuộc chiến Triều Tiên". Ủy ban Hòa giải và Tìm hiểu sự thật ước tính ít nhất 100.000 người đã bị hành quyết. Những ước tính này dựa trên các cuộc khảo sát của các địa phương và theo ông Kim, con số thực sự có thể cao gấp hai lần và hơn thế.[135] Trong những vụ khác, quân đội Nam Triều Tiên cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy khi họ không thể nào giải tỏa những cây cầu đó trước khi quân địch đến, gây ra thương vong cao cho dân thường.

Các lực lượng Triều Tiên của cả hai phía thường xuyên vây bắt và buộc tất cả các nam và nữ trong vùng hoạt động của họ nhập ngũ; hàng ngàn người trong số đó không bao giờ thấy trở về nhà nữa. Theo ước tính của R. J. Rummel, giáo sư tại Đại Học Hawaii, khoảng 400.000 công dân Nam Triều Tiên bị bắt quân dịch phục vụ trong Quân đội Bắc Triều Tiên.[101] Trước khi Quân đội Hoa Kỳ tái chiếm Seoul vào tháng 9 năm 1950, theo chính phủ Nam Triều Tiên, ước tính có khoảng 83.000 công dân của thành phố này bị các lực lượng rút lui của Bắc Triều Tiên mang theo, số phận của họ đến nay vẫn không được biết rõ.[136] Bắc Triều Tiên thì tuyên bố rằng những người Nam Triều Tiên đã đi theo phục vụ quân đội của họ một cách tự nguyện và không hề bị giam giữ.[137]

Quân đội Mỹ được lệnh xem bất cứ thường dân Triều Tiên nào hiện diện tại mặt trận mà tiến về các vị trí của họ là thù địch, và được lệnh "vô hiệu hóa" họ vì sợ bị xâm nhập. Việc này đưa đến các vụ tàn sát bừa bãi hàng trăm thường dân Nam Triều Tiên bởi lực lượng Hoa Kỳ tại những nơi như No Gun Ri trong đó nhiều người tị nạn không tự vệ - đa số là phụ nữ, trẻ con và người già - bị quân đội Mỹ bắn chết và có thể đã bị Không quân Hoa Kỳ dội bom lên đầu. Gần đây, Hoa Kỳ đã thừa nhận là có chính sách "ngăn chặn thường dân" tại một số nơi ở mặt trận ở một số thời điểm.

Tháng 9 năm 1952, Uỷ ban Khoa học Quốc tế về điều tra các sự kiện về chiến tranh vi khuẩn ở Triều Tiên và Trung Quốc (ISC) đã đưa ra một báo cáo cho thấy Mỹ đã tiến hành chiến tranh sinh học trong chiến tranh Triều Tiên. Một báo cáo công bố vào tháng 2 năm 2018 đề cập đến việc Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí sinh học đối với thường dân Triều Tiên. Máy bay Hoa Kỳ đã thả những con bọ chét nhiễm mầm bệnh dịch hạch vào Bắc Triều Tiên vào tháng 2 năm 1952. Kể từ đầu năm 1952, nhiều ổ bệnh dịch hạch đã xuất hiện ở Bắc Triều Tiên. Ví dụ như làng Bal-Nam-Ri bắt đầu xảy ra nạn dịch hạch vào ngày 25/2/1952, trong số 600 người trong làng, 50 người bị bệnh dịch hạch và 36 người đã chết.[138]

Các tù binh chiến tranh bị cả hai phía của cuộc xung đột ngược đãi trầm trọng. Nhiều kiểm chứng lịch sử đã cho thấy có các cuộc đánh đập thường xuyên, bỏ đói, lao động cưỡng bức, hành quyết tập thể. Có những cuộc đi bộ đường xa được biết với tên gọi "đường tử thần" do Bắc Triều Tiên và Trung Hoa thực hiện chống các tù binh Liên Hợp Quốc.[139] Các lực lượng Bắc Triều Tiên đã gây ra một số cuộc xử bắn hàng loạt các binh sĩ Hoa Kỳ bị bắt tại những địa danh như Đồi 312 và đồi 303[140] trong Vành đai Pusan, bên trong và xung quanh Daejeon; chuyện này xảy ra đặc biệt là trong các cuộc càn quét lúc đầu. Theo bản báo cáo của Quốc hội Hoa Kỳ: "Hơn 5.000 tù binh chiến tranh Mỹ chết vì hành động phạm tội ác chiến tranh của cộng sản và hơn 1.000 người sống sót là nạn nhân của tội ác chiến tranh. (…) Khoảng chừng 2/3 tổng số tù binh chiến tranh Mỹ tại Triều Tiên chết vì tội ác chiến tranh".[141][142]

Bắc Triều Tiên và Trung Hoa tuyên bố là họ đã bắt được trên 70.000 binh sĩ Nam Triều Tiên tất cả, nhưng họ chỉ trao trả 8.000 trong số đó. Ngược lại, 76.000 tù binh chiến tranh Bắc Triều Tiên được Hàn Quốc trao trả.[143] Ngoài con số khoảng 12.000 chết trong lúc bị bắt, theo Hoa Kỳ, có khoảng 50.000 tù binh chiến tranh Nam Triều Tiên có lẽ bị cưỡng bức gia nhập vào quân đội Bắc Triều Tiên.[101] Theo Bộ Quốc phòng Hàn Quốc, có ít nhất 300 tù binh chiến tranh vẫn còn bị giam giữ tại Bắc Triều Tiên trong năm 2003. Vừa qua, một binh sĩ Nam Triều Tiên đã trốn thoát từ Miền Bắc và trở về nhà trong năm 2003.[144]

Phía Nam Triều Tiên cũng có những hành động tương tự khi bị cáo buộc đã thảm sát hàng trăm nghìn lính Bắc Triều Tiên và Trung Hoa, trong đó rõ ràng nhất là cuộc thảm sát 1.800 tù nhân chính trị do quân đội miền Nam Triều Tiên thực hiện tại Daejeon, trong ba ngày của tháng 7/1950. Các nhà sử học và nhân chứng sống sót khẳng định binh lính Hàn Quốc đã hành quyết nhiều thường dân khi các lực lượng của Liên Hợp Quốc rút lui trước cuộc tấn công của quân đội Bắc Triều Tiên vào giữa năm 1950. Những nạn nhân này bị tình nghi có cảm tình với Bắc Triều Tiên và có thể cộng tác với đối phương nên bị xử bắn.[145]

Một điều rất đặc biệt là binh sĩ Nam Triều Tiên lại trở thành nạn nhân bị ngược đãi của chính quân đội này. Trong tháng 12 năm 1950, Ủy ban Quốc phòng của Nam Triều Tiên được thành lập, quản lý 406.000 binh lính Nam Triều Tiên. Vào mùa đông năm 1951, 50.000 tới 90.000 binh lính Nam Triều Tiên đã bị bỏ đói đến chết trong khi hành quân về phía nam dưới sự tấn công của Trung Quốc, bởi các sĩ quan chỉ huy của Nam Triều Tiên đã tham ô ngân quỹ dành cho thực phẩm của binh sĩ. Sự kiện này được gọi là Khủng hoảng tại Ủy ban Quốc phòng.[146]

Chiến tranh Triều Tiên là một cuộc đối đầu vũ trang đầu tiên của Chiến tranh lạnh và đặt chuẩn mực cho nhiều cuộc xung đột sau này. Nó tạo ra ý tưởng cho một cuộc chiến tranh giới hạn mà hai siêu cường đánh nhau tại một quốc gia khác, khiến cho người dân tại quốc gia đó chịu nhiều sự tàn phá to lớn và chết chóc trong một cuộc chiến giữa hai quốc gia to lớn như thế. Các siêu cường tránh rơi vào một cuộc chiến tranh toàn diện với nhau, cũng như tránh việc sử dụng vũ khí nguyên tử chống lại nhau. Nó cũng mở rộng Chiến tranh lạnh đến mức độ gây lo ngại phần lớn cho châu Âu.

Chiến tranh Triều Tiên đã gây thiệt hại nặng nề cho cả hai miền Triều Tiên. Mặc dù Nam Triều Tiên trì trệ về kinh tế trong thập niên theo sau chiến tranh, song sau đó đã có thể hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Ngược lại, kinh tế Bắc Triều Tiên hồi phục nhanh chóng sau chiến tranh, tuy nhiên, nền kinh tế của Bắc Triều Tiên từ từ tăng trưởng chậm lại sau khi bạn hàng truyền thống là Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ. Ngày nay, nền kinh tế Bắc Triều Tiên bị tụt lại khi so sánh với nền kinh tế của Hàn Quốc. Năm 2007, Sách Dữ liệu Thế giới của CIA ước tính rằng GDP của Bắc Triều Tiên là 40 tỷ đô la Mỹ, thu nhập bình quân đầu người một năm của Bắc Triều Tiên là 1.800 đô la Mỹ.[147] Nếu tính theo sức mua tương đương thì thu nhập của người dân Bắc Triều Tiên có thể cao hơn (đạt khoảng 6.000 - 8.000 USD/người), nhưng vẫn kém hơn đáng kể so với thu nhập bình quân đầu người/năm của Nam Triều Tiên là 24.500 đô la Mỹ.[148]

Tại Nam Triều Tiên, các chính quyền độc tài quân sự liên tiếp thay nhau lên nắm quyền từ sau năm 1950 đến cuối thập niên 1980 với lập trường chống cộng sản rất mạnh (quân đội Nam Triều Tiên từng được cử sang tham chiến cùng Mỹ trong cuộc chiến ở Việt Nam) khiến cho phần lớn lực lượng những người ủng hộ chủ nghĩa này bị tiêu diệt và phong trào cộng sản không thể khôi phục hay tổ chức được thêm những cuộc nổi dậy lớn về sau nữa.[149] Ngày 18/5/1980 đã xảy ra vụ nổi dậy Quang Châu (Gwangju) khi người dân địa phương đánh cướp kho vũ khí của các trạm cảnh sát địa phương để chống lại cảnh sát chính phủ của Chun Doo-hwan sau khi lực lượng này đàn áp một cuộc biểu tình ôn hòa của sinh viên địa phương. Quân đội Nam Triều Tiên được điều đến và nổ súng bắn chết khoảng 1.000 tới 2.000 thường dân.[150][151]

Một vùng phi quân sự được canh phòng dày đặc (DMZ) trên vĩ tuyến 38 tiếp tục chia cắt bán đảo ngày nay. Thái độ chống cộng và chống Bắc Triều Tiên tuy không còn mạnh như trước nhưng vẫn còn hiện hữu tại Hàn Quốc ngày nay, và đa số người Hàn Quốc phản đối chính quyền Miền Bắc. Tuy nhiên, một Chính sách Thái Dương đã được đảng cầm quyền (Đảng Uri) thực hiện. Đảng Uri và Tổng thống Roh thường bất đồng với Hoa Kỳ trong các cuộc thảo luận về Bắc Triều Tiên. Đảng Đại Dân tộc (GNP) là đảng đối lập chính đối với Đảng Uri cho đến ngày nay vẫn duy trì chính sách chống chính quyền Miền Bắc. Tại Hàn Quốc, luật an ninh chống lại Triều Tiên vẫn có hiệu lực, theo đó những ai tỏ thái độ ủng hộ hoặc ca ngợi Triều Tiên có thể bị phạt tới 7 năm tù giam.[152][cần nguồn tốt hơn]

Tại Hoa Kỳ, Chiến tranh Triều Tiên đã không nhận được sự chú ý của nhiều người như Chiến tranh thế giới thứ hai hoặc Chiến tranh Việt Nam, vì vậy nó đôi khi được gọi là "Cuộc chiến bị lãng quên" (The Forgotten War).[153]

Theo tường trình của NPR (Truyền thanh Công cộng Quốc gia) ngày 7 tháng 9 năm 2007, Tổng thống Bush đã phát biểu rằng lập trường của chính phủ ông là một hiệp ước hòa bình chính thức với Bắc Triều Tiên chỉ có thể được ký kết khi nào mà miền bắc từ bỏ các chương trình hạt nhân của họ.[154] Theo Tổng thống Bush, "Chúng ta trông đợi đến ngày khi chúng ta có thể chấm dứt Chiến tranh Triều Tiên. Nó sẽ kết thúc - sẽ xảy ra khi ông Kim dẹp bỏ có kiểm chứng các vũ khí và chương trình vũ khí của ông ta".[155] Có một số người đã mô tả điểm này như một sự đảo ngược chính sách thay đổi chế độ, ám chỉ đến Bắc Triều Tiên đã được phát biểu trước đây của ông Bush.[156]

Tháng 4 năm 2018, các nhà lãnh đạo của Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc đã gặp nhau tại DMZ[157], họ nhất trí sẽ bắt đầu khởi động hàng loạt các cuộc đàm phán về một hiệp ước hòa bình để chính thức chấm dứt vĩnh viễn cuộc chiến, tiến tới kỷ nguyên hòa bình, ổn định, thịnh vượng và tái thống nhất toàn vẹn bán đảo.[158]

Ở tuổi gần đất xa trời, những phụ nữ từng bị ép làm nô lệ tình dục cho quân đội Nhật Bản trong Thế chiến II phải vật lộn với cuộc sống đơn côi, không gia đình, không quê hương và không một xu dính túi. > Thị trưởng Nhật gây sóng gió vấn đề nô lệ tình dục> Thủ tướng Nhật xin lỗi về nô lệ tình dục